Yannis Ritsos (1909 - 1990) là một nhà thơ cổ điển Hy Lạp vĩ đại. Ông được coi là một trong những nhà thơ Hy Lạp quan trọng nhất của thế kỷ 20. Tác phẩm của ông vẫn còn giá trị đến ngày nay nhờ những khám phá sâu sắc về nỗi đau khổ của con người, bất công xã hội và sức mạnh bền bỉ của hy vọng.
Thơ của Ritsos gây tiếng vang với độc giả trên toàn thế giới, vượt qua mọi ranh giới văn hóa và ngôn ngữ. “Tác phẩm của ông vô cùng đồ sộ, cuộc đời ông hào sảng và đầy biến cố, giọng văn của ông là hiện thân của lòng dũng cảm dân tộc, và trí tuệ hoạt động không ngừng nghỉ…” (theo Peter Levi viết trên tờ Times Literary Supplement).
“Những bài thơ của
Ritsos, với cảm xúc trực tiếp đau thương, đầy xúc động, và minh chứng cho lòng
dũng cảm của ít nhất một tâm hồn con người trong những hoàn cảnh mà ít ai trong
chúng ta từng đối mặt hoặc có thể vượt qua nếu chúng ta đối mặt với chúng"
(theo Philip Sherrard nhận xét trên tờ Washington Post Book World).
Ritsos có hai lần được đề
cử giải Nobel Văn học, và giành được Giải thưởng Hòa bình Lenin, giải thưởng
văn học cao quý nhất của Liên Xô cũ, cũng như nhiều giải thưởng văn học khác từ
khắp Đông Âu trước khi ông qua đời vào năm 1990.
Những khó khăn và bất hạnh
thời thơ ấu của Ritsos đã đóng một vai trò lớn trong tất cả các tác phẩm sau
này của ông. Gia đình giàu có của ông đã phải chịu cảnh phá sản khi ông còn nhỏ,
và chẳng bao lâu sau đó, cha và chị gái ông phát điên. Bệnh lao đã cướp đi sinh
mạng của mẹ và một người anh trai, và sau đó đã khiến Ritsos phải nằm viện điều
dưỡng ở Athens trong nhiều năm. Thơ ca và phong trào cộng sản Hy Lạp đã trở
thành nguồn động lực cho cuộc đời ông.
Vì các tác phẩm của ông
thường mang tính chính trị, Ritsos đã phải chịu đựng những giai đoạn đàn áp từ
các đối thủ chính trị. Một trong những tác phẩm nổi tiếng nhất của ông,
"Epitaphios" (Những tấm văn bia), một bài thơ than khóc lấy cảm hứng
từ vụ ám sát một công nhân trong một cuộc tổng đình công lớn ở Salonica, đã bị
chế độ độc tài Metaxas đốt cháy, cùng với các cuốn sách khác, trong một buổi lễ
được tổ chức trước Đền thờ thần Zeus vào năm 1936.
Sau Thế chiến II và sự sụp
đổ của Phong trào Kháng chiến Quốc gia Hy Lạp - một tổ chức du kích Cộng sản đã
âm mưu chiếm lấy đất nước trong cuộc nội chiến kéo dài 5 năm - Ritsos bị lưu
đày bốn năm đến các đảo Lemnos, Makronisos và Ayios Efstratios. Sách của ông bị
cấm cho đến năm 1954. Năm 1967, khi các đại tá quân đội tiến hành đảo chính và
chiếm lấy Hy Lạp, Ritsos một lần nữa bị trục xuất, sau đó bị quản thúc tại gia
cho đến năm 1970. Các tác phẩm của ông một lần nữa bị cấm.
Thơ của Ritsos trải dài
từ những tác phẩm mang tính chính trị công khai đến những tác phẩm mang tính cá
nhân sâu sắc, và thường sử dụng các nhân vật trong thần thoại Hy Lạp cổ đại. Một
trong những tác phẩm dài hơn của ông và là chủ đề của nhiều bản dịch, The Fourth Dimension, (Chiều kích thứ
tư) bao gồm mười bảy đoạn độc thoại thường liên quan đến vua Agamemnon thời cổ
đại và gia tộc Atreus bi thảm. Được kể lại bởi những nhân vật kinh điển như
Persephone, Orestes, Ajax, Phaedra và Helen thành Troy, The Fourth Dimension là
một "cuốn sách được viết rất hay... mô tả những gì xảy ra khi tình yêu,
thù hận và sự ganh đua giữa anh chị em trở nên hỗn loạn".
Nhà phê bình Mary
Fujimaki của tạp chí Stand nhận xét, đồng thời cũng ca ngợi "sắc màu, sự
phấn khích, sự chuyển đổi qua lại giữa quá khứ và hiện tại, điều này tự nhiên
khiến những câu chuyện trở nên quen thuộc hơn với độc giả hiện đại".
Ngắn hơn là những câu
thơ trong tập Repetitions, Testimonies, Parentheses xuất bản năm 1991, một tập
hợp tám mươi bài thơ tương đối ngắn kết hợp thần thoại Hy Lạp và lịch sử.
"Đây... chính là Ritsos của những điều giản dị'", Minas Savvas nhận
xét trong bài đánh giá trên tờ World Literature Today. "Mong muốn khơi gợi
một khoảnh khắc hay một sự vật và mở rộng nó một cách kỳ diệu để khơi gợi ý
nghĩa huyền bí, bí ẩn của nó được thể hiện rõ nét trong những bài thơ súc tích,
gần như dí dỏm này."
Nhiều nhà phê bình đánh
giá những bài thơ ít mang tính chính trị của Ritsos là tác phẩm hay nhất của
ông. George Economou, khi viết trên tờ New York Times Book Review, đã nhận định
rằng "trong những bài thơ ngắn, hầu hết không mang tính chính trị công
khai, Ritsos đầy bất ngờ. Ông ghi lại, đôi khi ca ngợi những phẩm chất bí ẩn,
phi lý, bí ẩn và vô hình của trải nghiệm." Vernon Young trên tờ Hudson
Review đã trích dẫn "tài năng đáng chú ý... của Ritsos trong việc gợi lên
âm thanh và sắc màu của sự im lặng, khoảnh khắc sắp xảy ra, sự im lặng sững sờ."
Tương tự, John Simon cũng chỉ ra tính siêu thực trong tác phẩm của Ritsos.
Trong bài phê bình về
Ritsos trong cuốn Parenthesis for Poetry,
Simon viết: "Điều tôi thấy đáng chú ý về thơ Ritsos là khả năng tạo nên những
cấu trúc phi thường từ những nguyên liệu bình dị nhất, không gượng ép nhất -
siêu thực từ hiện thực. Và dường như không cần phải tạo ra nó, chỉ cần tìm thấy
nó." Simon cũng tìm thấy nỗi cô đơn trong thơ Ritsos. Ông giải thích:
"Ritsos... cũng là một thi sĩ vĩ đại của nỗi cô đơn, nhưng nỗi cô đơn được
tôn vinh và chế ngự. Hết bài thơ này đến bài thơ khác, hết hình ảnh này đến
hình ảnh khác, thấm đẫm sự cô đơn bằng một sự hài hước đen tối, thứ bắt đầu làm
dịu đi những tàn phá của nó và biến con người trong bài thơ thành một kẻ chiến
thắng thảm bại."
Được sáng tác trong một
giai đoạn lịch sử Hy Lạp đầy biến động với chiến tranh, chế độ độc tài và biến
động xã hội, thơ của Ritsos phản ánh những đấu tranh và sức chịu đựng của người
dân Hy Lạp. Những vần thơ mang đậm màu sắc chính trị của ông thường dẫn đến kiểm
duyệt và đàn áp, khiến ông trở thành biểu tượng của sự phản kháng nghệ thuật và
tiếng nói của những người bị gạt ra ngoài lề xã hội.
Với hình ảnh sống động
và ẩn dụ mạnh mẽ, phong cách của Ritsos dựa nhiều vào thần thoại và lịch sử Hy
Lạp, đan xen những trải nghiệm cá nhân với ký ức tập thể. Thơ của ông thường có
những câu chuyện rời rạc và giọng điệu trò chuyện, tạo nên sự kết nối mật thiết
với người đọc. Thơ của ông nổi bật với sự gần gũi và tính trực tiếp về cảm xúc,
mời gọi người đọc dấn thân vào những chủ đề phức tạp một cách sâu sắc.
Tập thơ cuối cùng của
Ritsos, Argha - poli argha mesa sti
nihta, được hoàn thành ngay trước khi ông qua đời và được xuất bản bằng tiếng
Hy Lạp nguyên bản vào năm 1991. "Tính năng động hình tượng, cường độ trữ
tình và những biểu đạt gần như siêu thực đáng kinh ngạc" đặc trưng cho tác
phẩm của nhà thơ trong suốt sự nghiệp bảy mươi năm của ông, theo ý kiến của nhà
phê bình M. Byron Raizis trên tạp chí World Literature Today, "một lần nữa
thể hiện rõ nét, mới mẻ và hiệu quả như bất kỳ thời điểm nào trong... hoạt động
sáng tạo của ông."
Độc giả quan tâm đến
Ritsos cũng có thể tìm hiểu các tác phẩm của những nhà thơ khác, những người đã
sáng tác trong cùng thời đại và khai thác những chủ đề tương tự. Một số ví dụ
bao gồm Pablo Neruda, Nazim Hikmet và Federico Garcia Lorca, tất cả đều sử dụng
thơ ca như một công cụ để bình luận xã hội và tham gia chính trị.
Các tác phẩm đáng chú ý
của Ritsos bao gồm: Pyramids – 1935 (Kim Tự Tháp), Epitaphios – 1936 (Những tấm
văn bia), Vigil – 1941 (Kinh đêm), Romiosini (1954) và 18 bài hát ngắn về Tổ quốc
bi thương - 1973 (18 Lianotragouda Tis Pikris Patridas )… Trong đó, tác phẩm
Epitaphios được đánh giá là một bài thánh ca của cánh tả Hy Lạp vào những năm
1950, và là tác phẩm nổi tiếng nhất của ông.
* Thơ của Yannis Ristos: The Poet’s Place
* References:
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét