Nguyên tác: Maurice Nadeau, chuyển ngữ: Dương Thắng
Thơ của Prévert tràn đầy nghị lực sống bởi vì ông nghĩ, ông diễn đạt và ông sống như biết bao những con người bình thường, vô danh khác. Thơ của ông thuộc về quảng đại quần chúng: trong sáng, quyến rũ nhưng cũng đầy hoài nghi trước những tấn tuồng mang dáng vẻ to tát lớn lao.
***
Nhà thơ Jacques Prévert sinh ngày 4/2/1900 tại
Neuilly-sur-Seine và mất ngày 11/4/1977 tại Omonville-la-Petite (Manche), Pháp.
Là tác giả của các tuyển tập thơ, trong đó có tập Paroles (Những lời nói-1946). Ông là nhà thơ được nhiều người yêu mến
bởi ngôn ngữ bình dị và cách chơi chữ khéo léo tinh tế. Những bài thơ của ông
đã nổi tiếng trong thế giới Pháp ngữ và được giảng dạy trong các trường học ở
Pháp. Ông cũng đã hoạt động tích cực trong các lĩnh vực sân khấu và điện ảnh,
trong lĩnh vực nào ông cũng biểu thị một tài năng chói sáng.
***
1. Điều gây ấn tượng mạnh nhất ở Prévert là
sức mạnh toàn năng của các sự kiện, sự việc, các mẩu tin vặt vãnh,
các giai thoại. Những bài thơ của ông lấy cảm hứng từ những gì đích
thân ông nhìn thấy, chạm vào, lắng nghe và thông thường nhất chỉ là
những mô tả, không phải là những mô tả trạng thái tâm hồn hay suy
tưởng mà là những hiện tượng của thực tại được các giác quan của
ông nắm bắt và thực sự đang tồn tại sống động xung quanh ông.
Jacques Prévert luôn tìm cách mô tả và giới
thiệu các sự vật một cách “nguyên thủy và trần trụi” nhất giống như
chúng vẫn đang diễn ra trong thế giới, tránh tô vẽ , ban phát hay áp
đặt những màu sắc hay hương vị đặt biệt, bắt nguồn từ hình dạng,
chất liệu hay cách sử dụng chúng. Một phiến đá / Hai ngôi nhà / Ba phế tích / Bốn phu đào huyệt
/ Một ngôi vườn/ Những bông hoa. Bài thơ có dạng một bảng “kiểm
kê”, trong đó tác giả gọi tên các sự vật, thực hiện một phép đếm
đơn giản các đối tượng mà ông gợi ý cho chúng ta nhìn, ông bày ra cho
chúng ta thấy.
Nhưng tại sao đa phần các bảng “kiểm kê” của
các thủ kho không bao giờ trở thành một bài thơ, còn những “ bản
kiểm kê" của Prévert lại luôn luôn trở thành những bài thơ đầy
ám ảnh ? Các đối tượng được nhắc đến trong các bảng kiểm kê của
các thủ kho thường được phân chia theo thể loại, được sắp xếp và kể
ra theo một trật tự đầy lí trí và lô gic chặt chẽ, còn nhà thơ lại
gợi ra tên các sự vật một cách đầy ngẫu nhiên và bất ngờ, dẫn dắt
bằng sợi chỉ vô hình kết nối các ý tưởng, tình cảm và những cảm
xúc. Đó là những sự hòa quyện đầy bất ngờ của những đối tượng
tưởng chừng như hoàn toàn xa lạ với nhau, tạo ra một ấn tượng đầy
ngỡ ngàng và thi vị. Chúng ta cũng sẽ nhận thấy việc xuất hiện
những cảm xúc như vậy khi xem các bức tranh của Chirico hay Dali: một
khẩu đại bác được trang trí ở trong phòng ăn hay một con tôm hùm dùng
làm tai nghe chiếc điện thoại bàn. Cần phải nhấn mạnh rằng không
phải việc mang các đối tượng bất kì nào, ở khoảng cách ban đầu bất
kì nào đến để cạnh nhau, “hôn phối” với nhau trong một tác phẩm nghệ
thuật là sẽ thành công, đôi khi đó chỉ đơn giản là một sự hỗn loạn
thuần túy.
Có những quy luật bí ẩn, nằm ngoài tầm ảnh
hưởng của logic và tính thực dụng đã tác động vào đây.Trong bài thơ
vừa nhắc đến ở trên, có một sợi dây vô hình đã nối các từ: phiến
đá, ngôi nhà, phế tích, còn phía bên kia là các từ: phu đào huyệt,
ngôi vườn, những bông hoa được gắn kết với nhau và dường như tồn tại
con một đường tắt để nối từ phế tích với phu đào huyệt! Bằng những
nét vẽ đơn giản và trực diện, con người cũng dễ dàng biến thành một
thứ đồ vật để chúng ta quan sát với một sự dưng dưng trong tâm
khảm: Lạc lối và lạnh buốt /
Đơn độc / Không một xu dính túi / cô gái mười sáu tuổi / Đứng im lìm
/ Trên quảng trường Concorde / Buổi trưa ngày 15 tháng Tám. Nhưng
nếu chú ý hơn một chút, chúng ta sẽ nhận ra ở đó một thứ gì đó
gây xao xuyến. Có một điều gì đó tạo ra ngạc nhiên và băn khoăn . Và
cuối cùng chúng ta đã nhận ra sự không tương thích của đối tượng với
thời gian và địa điểm nêu ra trong đó!
Trong bài thơ “Điểm tâm buổi sáng” (Déjeuner du
matin) chúng ta nhìn thấy các sự vật đang chuyển động, chúng kết
thành một chuỗi các động tác/ trạnh thái với sự vắng mặt hoàn
toàn của chủ thể: Chàng rót café
vào tách / Chàng rót sữa vào trong tách café / Chàng cho đường vào
tách café-sữa. Một sự mô tả chi tiết từng động tác li ti, chậm
rãi và chính xác giống như đang quay phim, còn chúng ta không biết cái
gì thực sự đang diễn ra, diễn ra ở đâu và ai là người đang “quay”
những thước phim đó. Thi ca đột ngột xuất hiện không một dấu hiệu
báo trước sau cú va chạm giữa hai thứ thực tại: thực tại của những
cử chỉ điềm tĩnh đơn giản và máy móc theo thói quen và thực tại
bão tố đầy xáo trộn mà chúng đang che giấu: ...Và chàng đã ra đi dưới trời mưa/ không
một lời giã biệt/ không một ánh mắt liếc nhìn/ Tôi úp mặt vào lòng
bàn tay/ Nghẹn ngào khóc. Chúng ta đều biết rằng với các nhà
thơ, từ ngữ là những đối tượng thao tác, và chúng ta cũng biết rằng
sau khi “bóc tách” chúng ra khỏi những trường cảm xúc thông thường,
“rửa sạch” chúng khỏi những ngữ nghĩa quen thuộc đến chai lì vẫn đeo
bám, các nhà thơ sẽ chơi đùa với từ ngữ như những viên đá rải
đường, sắp xếp chúng để tạo ra những tổ hợp ngữ nghĩa mà trong đó
mỗi từ ngữ sẽ mang một ý nghĩa hoàn toàn mới lạ độc đáo và thấm
đẫm chất thơ. Những thao tác như thế sẽ tạo ra những đối tượng mới,
gây kinh ngạc nơi người đọc. Một
cụ già bằng vàng với chiếc đồng hồ cũ nát/ Một nữ hoàng sầu muội
với người đàn ông nước Anh / Những người lao công của hòa bình với những
người canh biển / Một con rắn cuộn trong cốc café với chiếc cối xay
gió đeo kính lão. Trò chơi chữ, lối nói lái, nuốt vần hay ẩn
vần mà Prévert sử dụng đầy hào hứng chỉ là những thao tác "cơ
giới" trên những từ ngữ được cưỡng bức “ hôn phối” với nhau để
tạo ra một thực tại mới. Hòa trộn một vài từ ngữ với nhau, ông
nhanh chóng tạo ra một thứ logic mới cho phép chỉ trong một nhát cọ
vẽ sẽ dựng nên một thứ thực tại kì lạ nhưng đầy sức thuyết phục và
ám ảnh. Để làm được điều đó , nhà thơ không có cách nào khác ngoài
việc trở thành một bậc thầy, một thứ phù thủy của ngôn ngữ...
2. Prévert đã thực hành các sáng tạo của mình
với một chủ đích rõ ràng nhằm tạo ra những hiệu ứng hài hước và
ấn tượng. Thông thường ông thích sử dụng lại các từ ngữ mà mọi
người vẫn quen dùng, những từ ngữ đã ít nhiều bị “mất giá”, bị
“bào mòn” bởi tần suất sử dụng quá nhiều trong đời sống. Qua bàn
tay ông, bằng cách khôi phục lại các ngữ nghĩa cụ thể, vật chất mà
những từ ngữ đó có khả năng thu nạp, từ ngữ vốn quen thuộc trong
những bài thơ của ông bỗng mang những sắc diện tươi mới, trong trẻo
và rất “thơ”: Người đàn ông cao
lớn loạng choạng / Vấp phải một câu trống rỗng / Đổ nhào vào bên
trong [...] ...những đám mây lả đi như nhưng con chó đói [....] ...Như
một quả cam thối vỡ tan từng mảnh khi bị ném mạnh vào bức tường /
Bài Marseillaise (quốc ca của nước Pháp-ND) vỡ òa”. Chúng ta dễ dàng nhận ra
một lượng lớn các từ ngữ , được dùng với các ngữ nghĩa cụ thể,
mang thuộc tính vật chất trong các bài thơ của Jacques Prévert. Một số bài
thơ được xây dựng hoàn toàn bằng các từ ngữ đầy sức nặng và rắn
chắc như những tảng đá: Họ gõ
trống / Họ đập các tấm thảm / Họ vắt quần áo / Họ phơi chúng lên /
Họ là chúng/ Họ lật ngược chúng... Nếu so sáng những bài thơ
“hiện thực, vật chất” này của ông với bất kì bài thơ theo khuynh
hướng “thần bí/ tâm linh” chúng ta dễ dàng nhận thấy ở thể loại sau
các từ ngữ thường bị nhạt nhòa đi, mất trọng lượng và bay đi như
những làn khói yếu ớt.
Chúng ta cũng sẽ giải thích được vì sao thơ
của Prévert cần phải được đọc lên, cần phải đến với độc giả thông
qua giọng nói. Hơn thế nữa đó là thể loại thơ rất thích hợp để phổ
nhạc và hát lên. Những hiệu ứng đó bắt nguồn từ tính cụ thể, tính
vững chắc của các từ ngữ trong thơ ông. Khi ngân nga, đọc đi và đọc
lại chúng, các từ ngữ đó sẽ ngân vang với đầy đủ các sức nặng của
nó.
3. Sẽ khó khăn hơn rất nhiều nếu chúng ta muốn
thâm nhập vào thế giới cảm hứng của Jacques Prévert và trả lời cho
câu hỏi vì sao ông gần như là nhà thơ duy nhất trong nền thơ ca đương
đại đã có thể phác họa lại và cấu trúc lại cái thế giới vật
chất mà chúng ta đang sống mà không bị rơi vào cái nguy cơ tầm thường
hóa thơ ca. Giai đoạn đầu, ông chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của trường
phái siêu thực. Những năm tháng đó, gần như ông không viết gì, ông dồn
hết sức lực vào việc nghiền ngẫm và nuôi dưỡng / nâng cao tâm hồn
mình bằng việc thu nạp những tín điều của chủ nghĩa siêu thực. Ngày
nay chúng ta hiểu rõ rằng chủ nghĩa siêu thực nhắm đến một hiểu
biết toàn diện về con người và thế giới, nhắm đến việc xây dựng
một thứ nhất nguyên kết nối mỗi cá nhân với thế giới trong một thứ
thực tại không nghịch lí. Chúng ta cũng đã biết rằng mỗi nghệ sĩ
của chủ nghĩa siêu thực, những nghệ sĩ đầy tài năng, tùy theo khí
chất của mình, đã theo đuổi những con đường nghệ thuật khác nhau, đôi
khi dường như đối nghịch nhau, nhưng tất cả, ở cuối mỗi chặng đường,
đều tụ hội về một điểm. Một trong những con đường ấy hướng theo một
lối tiếp cận tuyệt diệu, những cảm nhận đến trực tiếp từ những
những hình ảnh trông thấy, những âm thanh nghe thấy của những cảnh
tượng “tầm thường” hàng ngày vẫn diễn ra quanh ta: một con đường, một
tấm áp phích, một khúc đồng dao của trẻ em,một tai nạn, một người
đàn bà băng ngang đường, một chiếc áo lẻ loi phơi trên cửa sổ ngôi
nhà tồi tàn ở ngoại ô...
Trong thơ ông, luôn tràn ngập những cảm nhận mới
mẻ trước những cảnh tượng dường như quá quen thuộc với những người
khác, đôi khi đi đến chỗ bị sốc trước sự vô cảm chung của một cộng
động ngày càng chai lì và cũ mòn. Những cảm giác này không bao giờ
được mô tả trực tiếp, chúng chỉ được tái tạo lại trong trí óc
người đọc khi đọc hết bài thơ, giống như một người vừa trực tiếp
ngắm nhìn cảnh tượng đó. Jacques Prévert cũng là người hoạt động
trong lĩnh vực điện ảnh, cái công việc đòi hỏi ông phải hoạt động,
phải chuyển động không ngừng giữa các hình ảnh, những hình ảnh vật
chất, cụ thể và dường như tiếp diễn bất tận. Sẽ thật sự đáng ngạc
nhiên nếu những hoạt động đó không có một chút gì ảnh hưởng đến thơ
ca của ông. Chúng ta cũng biết rằng, trong điện ảnh, không có đất cho
những diễn giải dông dài, trong điện ảnh, mọi cảm xúc sẽ được diễn
dịch qua những cử chỉ, những ứng xử. Những trạng thái bi kịch nhất
có thể đến từ hình ảnh một đồng xu lăn trên mặt đất, một cánh cửa mở
hững hờ hay một con thuyền xuôi lẻ loi trên dòng nước. Sự kiệm lời,
cách tiết kiệm tối đa các phương tiện gợi cảm, nhưng luôn là những
gợi cảm chính xác và đầy sức nặng có mặt trong rất nhiều bài thơ
của Prévert: Ba que diêm lần lượt đốt lên trong đêm / Que thứ nhất
để ngắm gương mặt em / Que thứ hai để ngắm đôi mắt em / Que thứ ba để
ngắm làn môi em / Và bóng tối ngập tràn để nhắc anh nhớ về tất cả
/ Ôm xiết em trong vòng tay. Đó chẳng phải là những cảnh tượng “thuần
chất” điện ảnh hay sao? Nhà thơ cũng thường xuyên sử dụng các kĩ
thuật điện ảnh để cấu trúc các bài thơ. Các hình ảnh mà ông sáng
tạo luôn tuần tự trôi đi, nối tiếp nhau một cách chuẩn xác. Ông hiếm
khi trộn lẫn các hình ảnh với nhau ngoài một vài trường hợp khi ông
cầu viện đến thủ pháp “chồng hình”.
Prévert luôn khai thác đến cạn kiệt những hiệu
năng của một hình ảnh trước khi chuyển sang một hình ảnh khác. Như
một cách để thử nghiệm, đôi khi ông sử dụng các thủ pháp “tăng tốc”
hay “giảm tốc” . Bài thơ “Kiểm kê” thuộc dạng thứ nhất còn bài “Bữa
ăn sáng” thuộc dạng thứ hai. Trong trường hợp thứ nhất, bài thơ như một
chiếc ống kính máy ảnh lia nhanh gọn liên tiếp các đối tượng các đồ
vật được xem xét, ở trường hợp hai, những cử chỉ / động tác của
nhân vật lại được phân tách, chia nhỏ đến mức tối đa và trôi đi với
một tốc độ vô cùng chậm rãi.
4. Thấm đẫm các yếu tố điện ảnh, những bài
thơ của Prévert vẫn cứ là những tác phẩm thi ca đích thực, bởi lẽ
Prévert không chỉ là người chỉ ra các hình ảnh, những ánh phản
chiếu nhợt nhạt của một thế giới bền chắc, ông thực sự là đấng
sáng tạo của một thế giới chân thực nhưng lại luôn luôn nằm ngoài
tầm quan sát của những kẻ đương thời với ông. Tình yêu, sự khốn khó,
những vẻ tự mãn của tầng lớp tư sản trung lưu... trong thơ ông, tất cả
chỉ là những nốt nhạc của của một bản giao hưởng thuộc về một thứ
âm nhạc đích thực: một thứ nhạc chối tai của những tiếng nghiến
răng, những nhịp điệu nặng nề như những tiếng thở của những người
lao phổi. Đó là thứ âm thanh đặc trưng cho những mối quan hệ xã hội
trong thời đại chúng ta đang sống.
Thế giới của Prévert không phải là thế giới của những đối tượng thuần khiết, đó là một thế giới của những đồ vật, những con người, những thể chế mang những gương mặt khác nhau tùy vào vị trí, vai trò và trạng thái neo buộc vào trong đó. Thơ của Prévert tràn đầy nghị lực sống bởi vì ông nghĩ, ông diễn đạt và ông sống như biết bao những con người bình thường, vô danh khác. Thơ của ông thuộc về quảng đại quần chúng: trong sáng, quyến rũ nhưng cũng đầy hoài nghi trước những tấn tuồng mang dáng vẻ to tát lớn lao. Ông yêu thích các trò chơi chữ, nói lái hay kiểu cách pha trò của những người bình dân, những thứ rất hiếm gặp ở tầng lớp trung lưu hay tư sản. Jacques Prévert thực sự là một “phu chữ”, một người đầy chăm chút với công việc của mình, chắc chắn rằng những bài thơ đã lấy đi của ông rất nhiều sức lực. Đọc thơ ông, chúng ta sẽ chẳng bao giờ nhận thấy dấu tích của những nỗ lực đó, giống như chúng ta chẳng bao giờ nhận ra dấu vết giọt mồ hôi của những người thợ khi chiêm ngưỡng những công trình kiến trúc kiêu hãnh tồn tại với thời gian.
* Nguồn: Vannghequandoi.com
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét