Trích Chương XIII – Hồi ký Nguyễn Đăng Mạnh (tiếp theo phần 1)
![]() |
Đầu năm 1980, bỗng nhiên Nhà xuất bản Văn học cho người đến mời tôi làm Tuyển tập Nguyễn Tuân. Tất nhiên là tôi rất mừng và cảm động. Hồi ấy tôi ở một căn phòng thuộc tầng 5 của một chung cư gọi là nhà B2, khu tập thể cán bộ trường Đại học Sư phạm Hà Nội. Anh Lê Khánh, biên tập viên NXB Văn học đến thông báo cho tôi và cùng tôi làm Tuyển tập. Lê Khánh nói, ngày mai ta đến gặp Nguyễn Tuân để bàn chuyện. Tôi nhất trí ngay.
Tôi cũng thấy cần gặp Nguyễn Tuân để hỏi nhiều điều cần thiết để viết về ông. Sáng hôm sau, 8 giờ, chúng tôi có mặt ở nhà Nguyễn Tuân. Ông chấp nhận đề nghị của tôi, hẹn gặp làm việc 8 giờ sáng hôm sau. Ông dặn: “Anh cứ chuẩn bị sẵn những câu hỏi, đến làm việc cho nhanh”. Hôm sau tôi và Lê Khánh lại đến.
Tôi bắt đầu hỏi. Nguyễn
Tuân gạt đi: “Thôi để lúc khác”. Rồi ông nói đủ thứ chuyện nhưng không dính
dáng gì đến việc viết tiểu sử và làm tuyển tập cả. Tôi lấy làm lạ bèn hỏi: “Thế
bao giờ ta làm việc?”. “Mai, 8 giờ sáng”, ông lại hẹn đúng như hôm trước.
Tôi không hiểu, nhưng Lê
Khánh biết ý. Khi ra về, anh nói với tôi: “Ngày mai tôi không đến nữa, anh đến
một mình thôi. Ông ấy không thích tôi”.
Ngày mai tôi đến một
mình. Quả nhiên làm việc rất nhanh chóng trôi chảy. Tôi hỏi, Nguyễn Tuân trả
lời, rất gọn. Mấy ngày sau, tôi đem chuyện này nói với Xuân Diệu. Xuân Diệu
nói: “Đúng quá còn gì nữa, cậu chẳng hiểu gì cả. Trai gái yêu nhau, nói chuyện
tâm tình với nhau, có người khác ngồi đấy, nói sao được!”. Cái gì Xuân Diệu
cũng liên hệ đến chuyện trai gái.
Khác với Xuân Diệu,
Nguyễn Tuân không hề quan tâm gìn giữ những tài liệu của mình. Làm tuyển tập
Nguyễn Tuân, tôi không khai thác được tài liệu gì quan trọng của ông hết, ngoài
hai cuốn kiếm đâu cũng được: cuốn tuỳ bút Tình chiến dịch và tiểu thuyết Quê
hương (Sài Gòn in lại, vất đi nhiều chương một cách rất tuỳ tiện). Ngoài ra có
tập Tôi đọc, tập hợp những bài tiểu luận phê bình viết sau cách mạng tháng Tám.
Cuốn sách này vừa in ra đã bị cấm, phải huỷ hết. May mà Nguyễn Tuân giữ lại
được một bản. Thực ra những bài in trong Tôi đọc cũng không khó tìm. Toàn
những bài đã đăng trên sách báo sau cách mạng.
Thành ra làm Tuyển tập
Nguyễn Tuân, tôi phải tự xoay xoả lấy cả. May mà tôi đã nghiên cứu Nguyễn Tuân
từ hai mươi năm trước (1960) nên biết được hầu hết các tác phẩm của Nguyễn Tuân
đã in thành sách hay đăng lên các loại báo chí. Có những tờ báo không tên tuổi,
chẳng ai để ý như tờ Tuần lễ. Tôi đã tìm được ở đấy bài Răng người
tình của Nguyễn Tuân, viết năm 1938.
Khi bắt đầu làm tuyển tập,
Lê Khánh nói với tôi: “Tuyển văn Nguyễn Tuân phải cẩn thận, thí dụ như
bài Chém treo ngành thì
không nên tuyển”.
Nhưng tôi rất thích
truyện này, một truyện rất Nguyễn Tuân. Tôi đi tìm nguyên bản tác phẩm này khi
chưa bị kiểm duyệt, đăng trên Tao đàn
thời Mặt trận dân chủ Đông Dương. Mới thấy bọn kiểm duyệt thời Tây rất tinh. Nó
cắt đi ba chi tiết mà tác phẩm chuyển hẳn tư tưởng. Quả là chi tiết trong
truyện ngắn cực kỳ quan trọng: một là nó bỏ cái tên tác phẩm Bữa rượu máu, thay bằng Chém treo ngành, hai là hình ảnh thằng
công sứ Tây và thằng tổng đốc ta chuốc cho nhau hai tuần rượu và cái chi tiết
cơn lốc lớn chạy giữa hai hàng tử tù, đuổi theo và lật cái mũ thằng công sứ
quẳng xuống cho lăn lộn mấy vòng trên bãi cỏ pháp trường.
Tôi đưa ngay tác phẩm này
vào Tuyển tập một cách đắc ý. Nguyễn Tuân rất khoái. Ông mời tôi uống rượu và
chửi Hoàng Trung Thông: “Thế mà Hoàng Trung Thông nó bảo nhấm nháp chém đầu
người. Thằng cha cũng làm văn mà sao nó ngu thế!”.
Vậy mà mãi sau này,
trong “Chân dung và đối thoại”, Trần Đăng Khoa vẫn lặp lại ý kiến của Hoàng
Trung Thông.
Tôi để ý thấy có hai
trường hợp, Nguyễn Tuân không đồng ý cho vào Tuyển tập. Một là bài ông viết về
tranh lụa Nguyễn Phan Chánh, hai là bài ông viết về Dostoievsky. Bài thứ nhất
có lẽ do Nguyễn Phan Chánh là bố vợ Lê Quang Đạo, khi chết được đặc cách đưa
vào Mai Dịch. Ông ghét Lê Quang Đạo chăng ? Còn bài thứ hai là vì lý do khoa
học. Ông tự thấy chưa đọc hết các công trình về Đôxtôi, và đọc ai, mượn ý của
ai, giờ ông không có điều kiện tra cứu để chú thích cho sòng phẳng. Về mặt này,
Nguyễn Tuân tỏ ra rất nghiêm khắc về mặt khoa học (Sau, chúng tôi nài mãi ông
mới chịu. Nhưng ông yêu cầu phải cho ông viết mấy dòng gọi là “Tái bút” để
thanh minh với độc giả).
Hồi năm 1929, ông học ở
trường Thành Chung Nam Định, do tham gia một cuộc bãi khoá để phản đối một giáo
viên người Pháp nói xấu người Việt Nam, ông bị đuổi học. Trường học ghi vào học
bạ, phạt những người tham gia bãi khoá năm năm không được học ở trường nào,
không được làm ở công sở nào. Ông về Thanh Hoá rủ một người bạn (theo Tô Hoài,
là Lương Đức Thiệp) đi chơi qua Lào, sang Thái Lan, đến Băng Cốc, thì mật thám
bắt giải về nước theo đường Cămpuchia về Sài Gòn, rồi đưa ra quản thúc ở Thanh
Hoá, nơi cụ thân sinh ra ông làm việc.
Khi làm Tuyển tập Nguyễn
Tuân, tôi hỏi ông, sang Thái Lan làm gì? Ông nói: “Người khác sẽ nói là đi tìm
đường cứu nước. Nhưng tôi thì nói thật, vì đi chơi không có giấy phép nên nó
bắt, thế thôi”. (Theo Tô Hoài, Nguyễn Tuân rủ Lương Đức Thiệp sang Xiêm để tìm
ngọc ở Pâylinh). Trong quá trình làm Tuyển tập Nguyễn Tuân, tôi có điều kiện
tiếp xúc luôn luôn với ông. Ông quả là người khó tính, không phải ai đến, ông
cũng tiếp. Có lần ông đuổi một anh thanh niên đường đột đến thăm ông: “Anh đến
gặp con gái tôi đấy à? Nó đi vắng rồi!”. Lại nghe nói có một cán bộ lãnh đạo
ông không ưa, đến chúc Tết ông, ông mở cửa sổ nhìn xuống nói: “Nguyễn Tuân đi
vắng”, rồi đóng sập cửa lại…Nguyễn Văn Hạnh muốn đến ông, nhưng cũng ngại… Vậy
mà đối với tôi, ông tỏ ra rất dễ dãi. Ông cho phép tôi đến ông lúc nào cũng
được, không cần báo trước, miễn là đến sau 10 giờ sáng. Trước giờ đó, ông có
thói quen đi dạo mấy vòng ngoài phố, 10 giờ thì về ăn cơm.
Có điều này, ông nói tôi
mới biết: Anh Lý Hải Châu, giám đốc Nhà xuất bản Văn học đề nghị hai người làm
Tuyển tập Nguyễn Tuân, tuỳ nhà văn quyết định, ấy là Vũ Ngọc Phan và tôi.
Nguyễn Tuân đã chọn tôi. Tất nhiên tôi rất cảm động, nhưng vinh dự này cũng đặt
lên vai tôi một gánh nặng: phải chọn lựa tác phẩm và nhất là phải viết bài giới
thiệu sao cho xứng đáng với sự tín nhiệm của ông.
Bài viết chỉ có hơn 60
trang (in chữ nhỏ), mà tôi đã phải viết trong hơn sáu tháng. Rất may đã được
Nguyễn Tuân cho là được. Ông chỉ nói vắn tắt “Tôi không có ý kiến gì khác”.
Tuyển tập Nguyễn Tuân
gồm hai cuốn, xuất bản năm 1981, 1982. Ngày 29 – 5 – 1982, Nguyễn Văn Bổng, hồi
đó làm tổng biên tập tuần báo Văn nghệ, tổ chức một cuộc toạ đàm về Tuyển tập Nguyễn Tuân ở trụ sở Văn nghệ.
Hôm ấy có mặt Nguyễn Tuân, Xuân Diệu, Tế Hanh, Phạm Hổ, Lý Hải Châu, Lê
Khánh,Từ Sơn, Ngọc Trai, Nguyễn Bao, Thiếu Mai… và tôi. Tôi nhớ hôm ấy, Xuân
Diệu nói: “Nghe nói văn Chùa Đàn rất
hay, nhưng không có trong Tuyển tập. Phải trích vài trang Chùa Đàn cho người ta
biết mặt mũi tác phẩm này chứ. Tại sao không cho người ta có cái thú đọc văn
hay nhỉ! Qua Tuyển tập, tôi mới hiểu được anh Nguyễn Tuân. Tại sao lại cứ đòi
văn phải có ý nghĩa. Trai gái nó hôn nhau thì cần gì ý nghĩa. Sự sống có ý
nghĩa gì đâu. Tôi rất thích truyện “Một vụ bắt rượu lậu”. Dân mình thông minh,
hóm thật đấy. Xưa tôi đã từng làm đoan, tôi cũng đã từng đi bắt rượu lậu mà
không biết.”
Hôm ấy, Nguyễn Tuân rất
vui. Ông phát biểu rất hào hứng: “Hiện nay có một Tuyển tập Nguyễn Tuân ở
California, một cuốn ở Paris, một cuốn ở Sài Gòn, tôi tặng tướng Trần Văn Trà
do bài hồi ký của ông ta.” Hôm ấy, ông cũng nói công khai về việc chọn tôi làm
Tuyển tập: “Vũ Ngọc Phan hồi xưa làm báo Revue Franco – Annamite, đi xe nhà,
làm cái “Nhà văn hiện đại” chữ nghĩa chằn chẵn ra, chẳng có trouvaille gì, gọi là cái catalogue St étienne littéraire. Có vẻ accadémique. Giữa hai người, chọn Nguyễn
Đăng Mạnh còn đỡ hơn”.
Ông phê bình việc cắt
xén truyện Rượu bệnh tôi
trích và đổi tên là Bố Ô: “Trích
như thế làm cho không còn có tính chất yêu ngôn nữa, đó là fantaisiste và fantastique
kia mà, lão Bố Ô còn huýt sáo, còn có chuyện cháy nhà…
Tôi còn có truyện Thạch tinh, không nhớ đăng báo nào: một
anh ăn chơi, bị sỏi thận. Đêm, hai viên sỏi thận (thành tinh) nói chuyện với
nhau, người đó nghe được”.
Ông nói tiếp: “Còn Như
Phong, còn Mao, thì không thể có Tuyển tập Nguyễn Tuân. Ông Như Phong có lần
nói, văn Nguyễn Tuân để cho người hút thuốc phiện và hát ả đào đọc. Tôi giận
lắm. Tôi bảo Như Phong: “Tôi giận anh lắm, thế trước cách mạng, tôi hút, anh
cũng hút. Thế có phải lúc đó vì đọc sách của tôi mà anh hút không?”
Ông Vũ Đức Phúc rất ghét
văn tôi, vậy mà gần đây ông ấy phải viết khen văn tôi. Nhưng mà sau khi khen
ông ấy lại sợ người ta hiểu sai, đề cao tôi quá, lại nói Nguyễn Tuân không phải
là nhà văn lớn. Nào tôi có muốn là nhà văn lớn đâu, tôi chỉ mong làm một nhà
văn trung bình, viết về cái gì mình thích, thế thôi.
Hồi Tạp chí Văn hoá – Nghệ thuật có phân ra các ban về văn hoá: ăn,
mặc, ở. Hà Huy Giáp bảo tôi: Anh hay chú ý về cái ăn, vậy anh suy nghĩ xem có
cái gì viết, tìm ra lý luận gì về ăn uống. Tôi viết về giò chả. Ông Vũ Đức Phúc
phê phán là phục vụ bọn phe phẩy mặc áo phin nõn, áo nilông. Sau có chuyện mậu
dịch ta bán phở, thế là phục vụ phe phẩy à?
Ở Hàng Buồm có quán Bạch
Ngọc cơm tám giò chả rất ngon, mở từ thời xưa, có thanh toán hết nợ cũ (tháng
trước) thì mới bán tiếp. Bà chủ quán bảo tôi: “Ông ăn uống mãi mà ông dại.
Người ta ăn gấp mấy ông nhưng không nói. Ông ăn, ông nói, nên ông chết”.
Lúc ấy có một anh nhiếp
ảnh của báo Nhân dân đến chụp. Nguyễn Tuân lại chuyển sang nói về chụp ảnh: “Camus nói, le photographe, c’est l’histoire
de l’instant. Có người lại ví quay phim là lia một băng liên thanh, còn
chụp ảnh là lẩy phát một. Chụp ảnh là làm một việc rất thiện ý mà người ta khó
chịu”.
Cuối cùng ông lại quay
về chuyện Tuyển tập. Ông nói: “Cái người đàn bà không đẻ được nữa, người ta gọi
là tắt kinh, còn nhà văn không viết nữa, già, hết thời, tôi gọi là đến thời kỳ
“tuyển hồi” (viết hồi ký và làm tuyển tập). In tuyển tập tập I là un pieds dans la tombe rồi, in tập II
thì là đưa cả hai chân…” Từ sau chuyện Tuyển tập, thấy Nguyễn Tuân dễ dãi với
mình, tôi thỉnh thoảng lại đến ông. Tuy vậy lần nào đến cũng phải kiếm một cớ
gì đấy, gọi là có việc, chứ không phải đến chơi suông.
Hôm ấy, nhân nghe nói,
ông có những nhận xét rất ác về giới phê bình văn học, tôi đến ông để dò hỏi về
điều này. Quả là ông không mấy lạc quan về tình hình phê bình văn học.
Ông nói: “Nước mình
không qua tư bản chủ nghĩa, người ta thấy có trở ngại về kinh tế, song chưa
thấy trở ngại về tư tưởng. Lão Khổng Tử ghê gớm lắm!
Phê bình hiện nay cứ có
lối aurait écrire, lối conditionnel. Vào hàng phở lại đòi ăn
cơm và phê bình không nấu cơm, lẽ ra nấu cơm thì sẽ … hay hơn.
Thành ra để tránh conditionnel, người viết phải dùng toàn inpératif hay infinitif.
Tây phương nó đòi dân
chủ, bàn đã khá triệt để, đòi được tự do, được quyền phạm sai lầm, revendiquer le droit de l’ erreur. Không
phải để làm bậy đâu mà đòi một cái marge
cho tự do tìm tòi. Nếu bắt phải đúng thì ai dám tìm tòi. Mà sao phạm sai lầm
lại là độc quyền của một số người! Trong lịch sử ta đã có lúc giương lá cờ độc
lập tự do để tập hợp nhân dân, nhưng không mấy khi dám giương riêng lá cờ dân
chủ. On trouve quand on cherche. Quand on cherche, on trouve quelque chose. Khi
người ta tìm, có thể không tìm ra cái định tìm, nhưng nhất định tìm ra cái gì
đó, một cái khác với dự định.
Hiện nay đang hình thành
một thứ provincialisme, một thứ chủ
nghĩa tỉnh xép trong quan niệm, trong tinh thần lãnh đạo.
Người ta phê bình Tình rừng của tôi cũng theo lối
aurait écrire. Còn cuộc tranh luận chung quanh thể ký thì cứ cãi nhau ký với
cấu, ký không cấu, đúng là trò cười.
Về Vũ Trọng Phụng thì
tôi biết, chả có trốt – kít gì cả đâu. Hồi ấy viết lách lung tung lắm.
Hiện nay người ta ách
nhiều thứ quá. ách truyện ngắn Gogol, ách Le Rouge et leNoir, ách Guy de
Maupassant, Le Boule de suif, định dịch Le steppe sau lại thôi. ách cả La peau
de chagrin… Phê bình thì theo kiểu aurait écrire. C’ est une gratuité. Tôi ghét
nhất loại chính thống orthodoxe mà lại giả vờ thắc mắc, để do thám, aux
écoutes người khác. ách Miếng da lừa vì cho là chủ nghĩa sống gấp.
ách Le Rouge it le Noir vì cho rằng ông cha ta, vợ chồng ngủ với nhau cũng khăn
áo chỉnh tề, nay nó lại dám cởi quần áo ra thì láo quá! ở ta, một mặt khuyến
khích réalisme, mặt khác lại tránh cái réel. Tạo ra một thứ littérature
abstraite, hình như không đúng phương pháp nghệ thuật. Chỉ nói ý, không có hình
tượng thật. Theo tôi cần làm một essai có hệ thống về vấn đề này.
Tôi thấy cần chuyển câu
chuyện sang hướng khác, và muốn tìm hiểu xem khuynh hướng thẩm mĩ của Nguyễn
Tuân như thế nào khi đọc các sách vở ngoài nước (từ 1945 đến 1975, sách vở nước
ngoài vào nước ta chủ yếu là sách Liên Xô, Trung Quốc).
Nguyễn Tuân tỏ ra có
tình cảm với văn học Nga hơn. Ông nói, thích Gogol, Tchékhov, thích Le Manteau.
Thích Paoutovsky. Cuốn Histoire d’ une vie, sáu tập của Paoutovsky có đoạn văn
rất tuyệt: trên tàu điện, người ta phân phát cho mỗi người một bông hoa. Một
đoạn văn có cái lyrisme rất hay. Nguyễn Tuân rất ghét lối phê bình văn học kiểu
Mao-it của Tầu lúc bấy giờ. “Cuốn Ballade d’un soldat nói về một anh lính lúc
đầu nhát, sau có thành tích. Họ phê phán: “Sao lại đưa ra một anh lính nhát”.
Tra từ điển Larousse, tôi thấy nó định nghĩa: le courage, c’ est triompher la
peur. Không phải can đảm sinh ra đã có, phải có quá trình chứ. Người ta không
thích quá trình, cứ phải sinh ra đã can đảm rồi.
Chung quy là do thiếu
văn hoá. Thiếu văn hoá thì sinh ra hẹp hòi. Đó cũng là tư tưởng của phong kiến
và của nông dân”.
Một lần khác, vào đầu
tháng 11 năm 1986, tôi lại đến thăm Nguyễn Tuân. Nhân đang làm tuyển tập Vũ
Trọng Phụng, tôi muốn hỏi ông một vài chi tiết cụ thể về nhà văn này mà tôi
biết ông rất quý. Ngoài ra muốn ông viết cho một bài về Vũ Trọng Phụng để in
vào Tuyển tập.
Lúc tôi đến, ông đang
nằm xem sách. Ông ngồi dậy, có vẻ mệt mỏi. Trên bàn thấy có một mâm cơm rất đạm
bạc. Một bát cơm ăn dở. Vài miếng dứa trên một cái đĩa.
Tôi hỏi ông về ngôi nhà
của Vũ Trọng Phụng ở Cống Mọc, Vũ Trọng Phụng chết ở đó. Tôi nói anh Vũ Đình
Liên cho tôi biết đó là một ngôi nhà lá.
Nguyễn Tuân cau mặt:
- Tôi ghét cái anh Vũ
Đình Liên. Nhà ở Chợ Đuổi, chả biết vợ con xích mích thế nào, không ở được với
nhau, cứ đến ở nhà Vũ Trọng Phụng. Đúng là một anh thần kinh!
– Tôi ghét anh Vũ Đình
Liên. Tôi biết hồi trước anh ta có chơi bời gì đâu. Thế mà cứ nói dối là ngày
xưa tôi cũng chơi bời cô đầu, cô đít, ra vào tiệm ăn, tiệm hút… Giống như cái
anh Vũ Ngọc Phan. Hay gì, đẹp đẽ gì cái đó mà cũng phải nói dối, cứ “hư cấu” ra
làm cái gì.
Ông lắc đầu, để tay lên
ngực; “mùa rét, mệt”. Ông lấy một miếng dứa ăn tự nhiên, uống một hớp rượu
trong cái ly uống sâm banh – ly tròn có chân.
– Tôi đã viết trong bài
đăng ở Tao đàn: Vũ Trọng Phụng chết ở ngôi nhà ngay ngoài phố, gần Cầu Mới, chỗ
Ngã Tư Sở, đường Hà Nội – Hà Đông.
– Tôi hỏi: Vũ Trọng
Phụng có hút thuốc phiện?
– Có, Vũ Trọng Phụng có
hút thuốc phiện, để kéo dài cuộc sống, vì anh ta bị ho lao. Có đem bàn đèn về
nhà.
– Bác quen Vũ Trọng
Phụng từ hồi nào? – Không nhớ.
– Từ hồi còn ở Hàng Bạc?
– ờ.
– Bác có đến chỗ ở cuối
cùng của Vũ Trọng Phụng và có đưa ma Vũ Trọng Phụng?
– Có. Tôi không thể nào
nhầm, nhầm thế nào được! Tôi ghét cái anh Vũ Đình Liên…
Tôi tranh thủ chuyển
sang hỏi ông cái điều mà tôi luôn trăn trở: “Người ta hay nói về phong cách
Nguyễn Tuân. Nhưng bác lại ít nói về phong cách. Quan niệm của bác về phong
cách là thế nào?
Nguyễn Tuân ngồi im
lặng, vẻ mặt như sắp nói một điều gì đã có quan niệm rất rõ, Nghĩa là sắp phát
biểu một tuyên ngôn rành mạch. Một lát, rồi ông chỉ tay ra trước mặt, nói chậm
rãi:
– “Những người viết mà được chế độ này chấp
nhận, hay hay dở chưa biết, nhưng được chế độ này chấp nhận về thế giới quan,
nhân sinh quan. Trên cơ sở cái nhân sinh quan, thế giới quan chung ấy, mỗi
người lại có một cái nhỡn quan riêng, tiếng Pháp gọi là vision. Đó là cái đẻ ra
phong cách. Vì cái đó mà anh thì thích tả gió, tả nắng, anh thì thích tả mây,
tả mưa, người có sở trường này, người có sở trường nọ. Rồi cách đưa vấn đề cũng
khác nhau… Nó đẻ ra tất cả.
(Còn tiếp phần 3 & 4)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét