Trích Chương XIII – Hồi ký Nguyễn Đăng Mạnh
Từ nhỏ tôi đã đọc Nguyễn Tuân trong kho sách của bà chị cả tôi. Tất nhiên chẳng hiểu gì lắm! Nhưng cũng muốn bắt chước chủ nghĩa xê dịch của Nguyễn Tuân: thích lang thang ngắm trời, ngắm đất.Thời kháng chiến chống Pháp, một mình đi trên đường Việt Bắc, lội suối, leo đèo, rất khoái – thực sự cảm thấy cái khoái “Đường vui” của Nguyễn Tuân quả là có thật.
Hồi về Hà Nội học Đại
học Sư phạm (1957), tôi có lần dắt xe đạp thử đi suốt đêm ở Hà Nội, từ phố này
sang phố khác, bắt chước Nguyễn Tuân làm “Một người lữ hành trong thành phố
chúng ta”, xem Hà Nội sinh hoạt về đêm như thế nào, thưởng thức những tiếng rao
đêm có giọng điệu riêng của các hàng quà rong xuất hiện rất đúng hẹn cho mỗi
thời khắc.
Tôi chính thức được tiếp
xúc với Nguyễn Tuân khi dạy ở Đại học Sư phạm Vinh. Trường Vinh cử tôi ra đón
Nguyễn Tuân vào nói chuyện về ký chống Mỹ. Ấy là vào năm 1965, 1966 gì đó.
Xe đi từ sáng sớm, nhưng
đến cầu Khuất thì phải dừng lại rất lâu. Cầu sắt bị phá. Người ta bắc cầu phao.
Nhưng buổi sáng người ta phải dỡ phao cho thuyền bè qua lại. Vì thế mãi đến
trưa xe mới đến đồi Kim Tân. ở đây có một hàng bán miến gà. Xe dừng lại để ăn
trưa. Nguyễn Tuân không ăn, tuy tôi bảo nhà hàng làm cho một bát miến gà đặc
biệt (Hồi chiến tranh chỉ có loại miến làm bằng bột đao, nhưng vào thời ấy, thế
là đã sang lắm rồi). Ông lấy trong túi ra gói cơm nắm, xắt ra mấy lát, ăn với
ruốc. Sau đó lấy bi đông rượu rót ra cái nắp uống.
Trong cuộc đi này, tôi
thấy Nguyễn Tuân biết rất nhiều chuyện, nào là các làng nghề chung quanh Hà Nội
(làng này chuyên chữa kính, làng kia chuyên cắt tóc, làng nọ chuyên làm thợ
may…), nào là những nhân vật có tiếng ở xã này, huyện nọ, nào là những chuyện
vui thời kháng chiến chống Pháp trên đường số 6 từ khu Ba lên Việt Bắc… Và ông
hay đố chữ. Nhờ Nguyễn Tuân hôm ấy tôi mới biết được, tiết canh đánh giỏi là
“tiết canh xâu lạt”, người theo đạo Thiên chúa mà bỏ đạo, gọi là “dở người”.
Thí dụ “ông tôi đã dở người”, “Nam Cao đã dở người”…
Trường Đại học Sư phạm
Vinh lúc ấy sơ tán ở huyện Thạch Thành, tỉnh Thanh Hoá. Khi xe chúng tôi về đến
nơi, thấy Ban Giám hiệu đều có mặt ra đón long trọng lắm, sau đó bầy tiệc.
Từ hiệu bộ, tôi đưa
Nguyễn Tuân về khoa văn ở một địa phương gọi là Thạch Yến. Trần Văn Hối, phó
chủ nhiệm phụ trách sinh hoạt, thủ sẵn một chai vang ngoại đợi Nguyễn Tuân vào
thì đưa ra. Trông thấy chai vang, Nguyễn Tuân nói: “Rượu đàn bà, uống làm gì!”.
Hối cụt hứng, buồn quá! Hồi ấy Nguyễn Tuân rất nổi về những bài ký chống Mỹ
viết về những tên giặc lái tàu bay bị bắn cháy, bật dù xuống đất và bị nhốt ở
các trại giam. Chúng tôi mời ông vào để nói chuyện về những bài ký ấy. Giữa
buổi nói chuyện, sinh viên nhờ tôi đề nghị ông nói về Vang bóng một thời.
Tôi lựa lời nói với
Nguyễn Tuân. Ông hình như không thích thay đổi bài nói đã chuẩn bị, cứ tiếp tục
nói về ký chống Mỹ. Tôi nài thêm lần nữa, ông mới thủng thẳng nói mấy câu: “Tôi
đọc lại Vang bóng một thời, tôi thấy phục tôi quá! Tôi nhớ ngày trước tôi làm
gì có quan điểm lao động, thế mà tôi lại ca ngợi những người thợ mộc Tràng thôn
lên sửa đền cho thánh Tản viên. Hồi ấy tôi cũng chưa lên núi Tản Viên, Ba Vì,
kháng chiến mới có dịp tới. Vậy mà sao tôi tả đúng thế”. Rồi ông cười hóm hỉnh:
“ấy nói thế người ta lại bảo nhà văn không cần đi thực tế thì chết” (Nguyên
Ngọc cho rằng, nếu Nguyễn Tuân lên núi Tản Viên trước khi viết Trên đỉnh non Tản thì có khi lại viết
hỏng).
Từ lúc bị Nguyễn Tuân từ
chối chai vang, Trần Văn Hối bèn sục tìm trong làng kiếm được một chai cuốc
lủi, lặng lẽ đặt ở nơi nghỉ của ông. Lúc ông rời Thạch Thành, chai rượu vẫn còn
nguyên. Ông có rượu riêng đem đi, không uống tạp như Nguyên Hồng, Hoàng Trung
Thông hay Đoàn Phú Tứ… Bữa tiệc cuối cùng khoa văn tiễn ông có nhiều rau tươi:
xà lách xanh non, cà chua, ớt màu đỏ. Nguyễn Tuân có vẻ thích. Ông khen bữa ăn
rất đẹp. Ông kể chuyện từng được một ông sư đãi một bữa thịt chó độc đáo. Thịt
chó ướp gia vị, đặt vào giữa bông sen, bó lại, đem đồ cho chín dừ. Món ăn vừa
tục vừa thanh, vừa có vị chát của nhựa sen vừa có hương thơm của hoa sen.
Tôi nghĩ bụng, thịt chó
mà dám cho vào toà sen, lão sư nào mà hỗn thế. Nhưng vừa ăn vừa nghĩ đến cái
tục cái thanh của nó, chắc cũng thú. Lần thứ hai, tôi được gặp Nguyễn Tuân là
vào mùa thu năm 1967. Cũng là tình cờ thôi. Tôi ra Hà Nội, có việc đến Nhà Xuất
bản Văn học (49 Trần Hưng Đạo) và gặp Nguyễn Tuân ở đó. Hình như ông đến làm
việc với Nhà Xuất bản về việc in một tập ký chống Mỹ thì phải (Nghe nói NXB đề
nghị loại bỏ bài Tờ hoa, còn ông thì nhất định đòi giữ lại, không in thì thôi).
Dịp may hiếm có, tôi đề nghị được gặp ông. Ông đồng ý, không tỏ vẻ khó khăn gì cả.
Tôi hỏi ông về những tác
phẩm gần đây của ông, về quan niệm và cách viết của ông.
Ông nói liền một mạch,
rất sôi nổi:
– Người ta viết văn,
giảng văn, nói đã nhiều về tư tưởng, về đạo đức. Điều ấy không phải không cần.
Nhưng tôi muốn giúp độc giả nâng cao trình độ thẩm mỹ, đem đến cho họ cảm xúc
về cái đẹp. Đó là điều băn khoăn của tôi. Tôi cung cấp cho họ những gợi ý bằng
những suy nghĩ của tôi. Còn họ phản ứng thế nào, tuỳ.
– Về độc giả, tôi không
quan niệm là công nông hay trí thức mà chỉ chú ý phục vụ con người mới, có tư
tưởng mới, có văn hoá, có trí thức. Bao giờ độc giả được tất cả như thế, tôi
không biết, nhưng nhất định sẽ như vậy, tôi rất tin điều đó.
– Về kinh nghiệm viết
văn?
Tôi cho tác phẩm văn học
mà không tạo ra được cái atmosphère
thì không có giá trị gì. Cái atmosphère
nó làm cho cùng một hiện tượng, cùng một sự việc mà thành màu sắc xanh đỏ tím
vàng khác nhau. Cái chi tiết nước sông Hồng dâng cao trong bài “Hà Nội giải tù
Mỹ qua phố Hà Nội” là cái chi tiết tạo không khí như thế.
Kinh nghiệm tạo không
khí là phải có quan điểm lịch sử, quan điểm địa lý, quan điểm thiên nhiên, có
óc tưởng tượng mới tạo ra được. Bài Nguyễn Văn Trỗi, tôi viết ngay khi có tin
ấy. Tôi muốn tạo ra cái résonnance toàn thế giới. Lúc đó tài liệu gầy guộc
nghèo nàn quá, tôi phải cố tạo ra không khí bằng cách ngồi trước quả địa cầu và
bản đồ thế giới mà tưởng tượng.
Có người nhận xét tôi
lan man, không phải không đúng. Nhưng bài văn đâu phải bản báo cáo mà phải có
các mục 1, 2, 3, hay như bài rédaction, bài composition của học trò, cũng không
phải bài thơ Đường luật có đề, thực, luận, kết… Nó tuỳ theo nhà văn định nói gì
và cách nói của anh ta. Lan man là hiện tượng, nhưng nó có cái fil d’idée của
nó. Nó không có hại gì về bố cục, về tư tưởng là được.
Sông Đà bảo là lan man, thực ra là cái fil d’idée của nó là vấn đề
giao thông vận tải… Có người lại bảo tôi là thiên nhiên chủ nghĩa không nói đến
người. Thế thì bài Xoè của tôi bỏ đi
đâu? Người ta có định kiến sẵn khi phê bình nên không nhìn toàn diện.
Tôi cho nội dung không
thiếu. Cái quan trọng là cách nói cho nổi cái nội dung đó lên, thế mới gọi là
có đóng góp. Cách nói, nói thế nào là điều tôi băn khoăn nhiều và thế mới có
ích.
– Tôi không thích khẳng
định nhiều quá… Có lối viết đưa ra kết luận rõ ràng, dứt khoát, có cách viết
không kết luận, để tự người đọc kết luận lấy, gọi là lối nóng, lối lạnh. Tôi
thích lối thứ hai này. Người nước ngoài thường than phiền văn học ta trop d’
affirmatifs, trop de superlatifs, đáng lẽ nói tốt thì lại nói “rất tốt”, “rất
vĩ đại”…
Khi tôi và Nguyễn Tuân
trò chuyện với nhau thì cuộc tranh luận về thể ký còn đang tiếp tục sôi nổi
trên các báo chí (1966, 1967). Tôi bèn hỏi quan niệm của Nguyễn Tuân về thể văn
này.
Ông nói “Đúng, người ta
đang tranh luận về thể ký. Ký và cấu. Nhiều người tham gia tranh luận nhưng có
viết ký đâu. Tôi thì cứ viết. Có người hỏi làm thế nào để viết ký cho hay,
không nhạt. Tôi cho rằng phải có vốn văn hoá, vốn kiến thức. Người viết có
nhiều dụng cụ thì đồ chế tạo nhất định phải tinh xảo hơn. Kiến thức lịch sử,
địa lý, thiên nhiên…, rồi vận dụng các ngành nghệ thuật. Mà nói chung thì nghệ
thuật nào chẳng phải mượn các cách của nghệ thuật khác để thể hiện. Khi anh
không chỉ tả mặt mà còn tả cái gáy, cái vai, tả người cúi xuống, cái mông bóng
lên, là vô tình đã phải vay mượn điêu khắc rồi”.
Nói ký là bước sơ bộ của
truyện, không đúng. Các thể loại văn học đều bình đẳng. Mỗi thể văn được chọn
viết là do cái tài khác nhau. Một ký hoạ chì than có thể giá trị hơn một bức
sơn mài lớn. Cùng một matière có thể người này viết truyện ngắn, làm thơ, người
kia viết ký. Không có tài không viết ký được.
Ông A. France, nhà xuất
bản bảo ông viết truyện ngắn. Ông ấy nói, tôi làm gì có thời giờ viết truyện
ngắn.
Viết truyện, phải có
nhân vật. Nhân vật truyện không bị gò bó trong không gian, thời gian hay ước lệ
sân khấu. Nhân vật truyện muốn làm gì thì làm, tự do.
Ký không bắt buộc có
nhân vật, hay đúng ra chỉ có bóng dáng của nhân vật. Nên nhân vật không cần có
lí lịch, tính cách, số phận rõ ràng. Ký ghi sự việc, thấy ẩn ẩn hiện hiện một
nhân vật nào đó. Thoáng một tý hình ảnh, ký là sự việc. Sự việc thì cũng phải
có thằng người. Bốn người viết bốn thể tài, cũng đi thực tế. Cùng nghe, thấy,
hỏi, ghi chép. Kịch hỏi khác. Truyện hỏi khác. Giác quan anh viết ký phải dựng
lên hết. Sách cũng là một thực tế. Thí dụ đọc sách về Lai Châu như cuốn La mission de Pavy, đến một lúc nào đó,
có khái niệm về Lai Châu, biết đích xác lịch sử Lai Châu. Lai Châu thành một
thực tế. Viết ký phải đọc nhiều. Thượng vàng hạ cám, đọc hết. Nhưng đọc xong
phải có cái ý của mình, ghi lại. Có chỗ phải đánh dấu vì hay, để đọc lại. Đọc
sách địa chất, tình yêu Tổ quốc càng cụ thể.
Phản ánh thực tế phải
xoáy vào một điểm, nhưng phải có diện rộng soi vào đó. Đó là kinh nghiệm viết.
Văn khác toán. Toán chỉ
có một đáp số. Văn học lắm đáp số. Anh phê bình lại cứ đòi một đáp số.
Tôi viết Sông Đà. Thằng Tây nói sông Đà đen. Tôi
viết Sông Đà đỏ lên, sau bỏ chữ “lên” đi cho khoẻ.
Nói đến đấy, ông dừng
lại nghỉ hơi một lúc. Rồi bỗng quay trở lại cái ý về lối viết “nóng”, lối viết
“lạnh” – chắc ông chợt nhớ đến có kẻ từng phê phán truyện Chém treo ngành của
ông trong Vang bóng một thời.
“Có người nói tôi thích
nhấm nháp cái tài chém treo ngành trong Vang
bóng một thời, mà kẻ chém lại là tay sai đế quốc, phong kiến. Thực ra tôi
muốn nói tội ác của chúng nó là như thế đó, nó vừa nhắm rượu vừa xem chém người
– Khi đăng trên Tao đàn tôi lấy tên Bữa
rượu đầu lâu (Thực ra, đọc Tao đàn,
tôi chỉ thấy cái tên Bữa rượu máu –
NĐM). Người ta cứ muốn phải nói rõ thái độ đả kích, phê phán. Tôi cho không
cần, và đó là lối “lạnh” phải để độc giả tự kết luận, cho họ tự do. Có phải
giảng chính sách đâu mà cứ phải nói rõ đúng sai và phải chỉ ra thực hiện thế
này, thế khác. Văn học khác chứ! Người ta còn nói tôi thích quay lại thời phong
kiến.. Cái cổ không nhất thiết là cái phong kiến, mà có cả dân gian nữa chứ!
– “Viết văn phải có tinh
thần khoa học. Song có cái genre
merveilleux, genre fictif. Ai chả biết quả đất xoay quanh mặt trời. Thế mà
bao đời nay vẫn viết mặt trời mọc, mặt trời lặn mà cứ phải thừa nhận trong văn
học. Thế đấy, có cái rất phi lý mà vẫn tồn tại”.
Nguyễn Tuân nói liền một
mạch như thế, rất say sưa. Trên kia tôi đã nói đến cái lần, tôi được cử ra Hà
Nội mời Nguyễn Tuân vào Đại học Sư phạm Vinh để nói chuyện về ký chống Mỹ.
Chính trong cái lần ấy tôi đã nung nấu một bài viết về ký chống Mỹ của Nguyễn
Tuân (Bài này do chị Thiếu Mai, lúc đó ở Tạp chí văn học đặt).
Tháng 8 năm 1968, bài
viết được đăng trên tạp chí với đầu đề: “Con đường Nguyễn Tuân đi đến bút ký
chống Mỹ”. Vì bài này mà ông Hoài Thanh (Thư ký toà soạn Tạp chí Văn học lúc
bấy giờ) bị ông Trường Chinh gọi lên khiển trách. Hồi ấy bị ông Trường Chinh
phê thì thành chuyện ầm ĩ lắm. Nguyễn Tuân cũng biết.
Hôm ấy tôi gặp ông đang
sắp hàng ở một quán bia hơi ở Phố Huế (Nguyễn Tuân gọi là bia bơm), ông vẫy tôi
lại gần, cười nói: “Họ lôi cả anh vào với tôi rồi đấy!”.
Có lẽ vì thế chăng mà
Nguyễn Tuân có cảm tình với tôi. Tuy vậy tôi từ đấy cũng không có lần nào gặp
Nguyễn Tuân nữa. Không phải ngại gì cả. Tính tôi thế. Biết người ta có thích
mình đến không mà đến. Nghe nói Nguyễn Tuân rất khó tính, rất kiêu ngạo. Vả lại
ông bằng tuổi cha chú của mình, bạn bè gì mà đến chơi. Có khi ông ấy lại tưởng
mình “thấy người sang bắt quàng làm họ”, cứ đến quấy nhiễu ông.
Người ta đều nhận thấy
Nguyễn Tuân là một cây bút rất tài hoa và uyên bác. Đúng như thế. Nhân vật
chính của tuỳ bút là bản thân cái tôi của tác giả. Ký, tuỳ bút, hay hay dở là
phụ thuộc vào cái tôi ấy có phong phú hay không. Cho nên không uyên bác không
trở thành nhà bút ký, tuỳ bút được. Vì thế Nguyễn Tuân đọc rất nhiều, đọc đủ
loại: côn trùng học, địa chất học, địa lý học, sử học, giao thông vận tải…
Một lần tôi đến Nguyễn
Tuân thấy ông đặt trên bàn một cuốn sách viết về giao thông vận tải của Mỹ,
trong dó có bức ảnh chụp buổi lễ khánh thành đường xe lửa xuyên Mỹ: hai cái đầu
tầu đi ngược chiều áp vào nhau nơi lắp cái đinh bù- loong cuối cùng nối hai
đường tầu với nhau. Ở hai đầu tầu, có hai người rót rượu chạm cốc. Cái đinh bù
– loong này làm bằng vàng nguyên khối – Nguyễn Tuân cười nói: “Nếu ở Việt Nam
thì cái đinh bù – loong này đã bị đánh cắp từ đêm trước”.
Sự uyên bác của Nguyễn
Tuân cũng có chỗ độc đáo: ông muốn những tư liệu của ông chỉ mình ông có, nghĩa
là độc quyền tư liệu. Thí dụ, có bao nhiêu tấm ván trên cầu Hiền Lương, hoặc Hà
Nội có bao nhiêu cây tươi… Tìm cho được nhưng tư liệu ấy cũng phiền phức, công
phu lắm: phải đóng vai sỹ quan quân đội đổi gác trên cầu Hiền Lương để đếm được
các tấm ván ở cả đầu Bắc lẫn đầu Nam, phải tìm đến công ty quản lý cây xanh Hà
Nội để biết con số cây tươi của thành phố. Những tư liệu ấy có ý nghĩa gì quan
trọng đối với nội dung và hình thức bài ký? Tôi ngờ rằng ý nghĩa không nhiều.
Nhưng Nguyễn Tuân có lẽ ít quan tâm đến điều ấy. Cái quan trọng đối với ông là:
tư liệu ấy chỉ mình ông có, “đếch” thằng nào biết. (...)
(Xem tiếp phần 2).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét