(Bài đăng trên Đặc san ĐẠI LỘC - xuân Quí Tỵ 2013)
“Đất Quảng Nam chưa mưa đà thắm
Rượu Hồng Đào chưa nhấm đà say…”
Cái
say mặn nồng của xứ đất hay chút men
nồng của rượu… cũng chính là cái men tình ngất ngây của người dân đất Quảng
bình dị, chân chất như mạch nước nguồn không ngừng chảy trên bến thời gian, như
bát nước chè xanh xua cơn khát trong những trưa mùa hạ nắng gay, nắng gắt ở một
vùng quê miền Trung lắm nắng nhiều mưa. Tất cả tạo nên một hồn quê dung dị ,
một nỗi nhớ quê quay quắt mỗi khi Tết
đến, xuân về. Bài thơ tâm tình “rất
Quảng” của Dương Quang Anh - “Về thôi
em” - bắt nguồn từ mạch sống ấy:
VỀ THÔI EM
Em ra không, mai anh về đất Quảng.
Trời miền Nam giáp tết quá nôn nao.
Thèm chi mô một chén rượu Hồng Đào,
Dẫu chưa uống - chỉ say từ câu hát.
Em ở biển ngọn khoai trườn nổng cát,
Anh trên nguồn đá chẹn củ mì eo
Cả đời cha cày bới lượm đói nghèo
Vẫn khen đất mình chưa mưa đà thấm
Biển dưới em con cá chuồn ngon lắm,
Trên nguồn anh trái mít phải lòng theo,
Lận đận một đời quảy gánh gieo neo,
Nuôi con lớn mẹ lên nguồn xuống biển
Đất dễ thấm - dễ mềm lòng quyến luyến,
Người đi xa nhớ muối mặn gừng cay
Đờn Miếu Bông ai chọn phím so dây,
Để ta khóc theo chuyến tàu hối hả ?
Về thôi em, bận lòng chi xứ lạ.
Sông Thu ta dẫu bên lở bên bồi,
Dẫu mỗi năm mỗi nước lụt cuốn trôi,
Cây măng sậy vẫn bám bờ xanh mãi.
Chắc vườn xưa chừ ửng vàng hoa cải,
Cha mẹ trông ta - mòn Hòn Kẽm Đá Dừng !
(Dương Quang Anh, Tuyển tập thơ Chưa
mưa đà thấm Nhà xuất bản Hội Nhà văn, 1998)
Một
trong những người con xa xứ, nhà thơ
Dương Quang Anh trở thành gương mặt tiêu
biểu của văn học Đất Quảng. Ông sinh năm
1946, quê ở thôn Việt An, xã Bình Lâm, huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam - nay
là xã Bình Lâm, huyện Hiệp Đức, tỉnh Quảng Nam. Dương Quang Anh có thơ đăng
trên một số báo, tạp chí... Bài thơ Về thôi em được Dương Quang Anh viết
cuối năm 1997, được tuyển chọn và in trong tuyển tập thơ Chưa mưa đà thấm do Nhà xuất bản Hội Nhà văn phát hành. Dương
Quang Anh sáng tác không nhiều, tuy vậy, bài thơ Về thôi em của ông là một
bài thơ đã in đậm dấu ấn trong tâm hồn bao con người Quảng Nam.
Ấn tượng đầu tiên khi tôi đọc bài thơ Về
thôi em, đó là lời tâm tình
tha thiết trong nỗi nhớ thương da diết, quay quắt của một người con xứ Quảng
phải xa quê trong những ngày giáp tết nôn nao ở tận miền Nam. Lời tâm tình
trong thương nhớ đến xót lòng ấy có lẽ hẳn được cất lên từ thẳm sâu tình cảm
trong những ngày tha hương của chính tác giả thì mới chân thành đến thế. Nhưng
bài thơ không chỉ là lời tự viết cho mình. Về thôi em quả đã gợi được nỗi lòng
chung của những con người Quảng Nam xa xứ :
Em ra không, mai anh về đất Quảng.
Trời miền Nam giáp tết quá nôn nao.
Thèm chi mô một chén rượu Hồng Đào,
Dẫu chưa uống - chỉ say từ câu hát.
Lời mời gọi của chàng trai đất Quảng với
những người em thân yêu như mạch cảm xúc tuôn trào từ trái tim đang thèm khát trở lại cố hương trong những ngày
giáp tết ở miền Nam. Nỗi nhớ đang cuộn chảy nhớ quay, nhớ quắt như chuyến tàu cuối năm hối hả về
lại quê nhà khiến nhà thơ- nhân vật trữ tình nghĩ đến mà nôn nao cõi lòng. Làm
sao không nhớ quê được bởi cái tết ở một vùng quê miền Trung lắm nắng nhiều mưa đong đầy bao kỉ niệm khó phai, bao
tình cảm mặn nồng của tổ ấm gia đình: “ Tết nay con không về, mẹ chờ tin
con...”. Đặt nỗi nhớ vào một khoảng không gian và thời gian rất đặc biệt khiến
những ai xa quê, tết này không về ăn tết
cùng gia đình chắc không khỏi chạnh lòng! Vẫn chất giọng Quảng Nam mộc mạc “ thèm chi mô”, nỗi nhớ của kẻ tha hương được khơi nguồn từ câu hát
quê hương :
“Đất Quảng Nam chưa mưa đà thấm
Rượu Hồng Đào chưa nhấm đà say
Thương nhau chưa đặng mấy ngày
Đã mang câu ơn trượng nghĩa dày bạn ơi”.
Rượu Hồng Đào – Một hình ảnh
siêu thơ độc đáo đến lạ thường. Chưa nhấm mà say, phải chăng say cảnh, say
người hay say chút men rượu của quê hương xứ Quảng. Cách nói quá ở đây càng thể
hiện phong cách của người Quảng: thèm được nhấp môi một chén rượu Hồng Đào-
hương vị vừa cay, vừa đượm được ủ từ hạt
gạo đồng quê, từ giọt mồ hôi của bao người nông dân vất vả, chân quê.
Qua
nỗi nhớ, sau hồi tưởng, kẻ tha hương như thấy mình được sống lại với từng cảnh
vật thân thiết của quê hương : thèm được nhìn lại hình ảnh ngọn rau khoai trườn
lên nổng cát hay củ mì (còn gọi là củ sắn) trên nguồn bị đá “chẹn” đến méo mó
về hình dạng“ mì eo”.
Câu
ca tiếp tục khơi nguồn cho nỗi nhớ “Ai ơi nhắn với bậu nguồn/ Mít non gửi
xuống cá chuồn gửi lên”. Lấy chất liệu từ câu ca ân tình đất Quảng, nhà thơ
như muốn gợi lại cho những người xa xứ nhớ về một mảnh đất miền Trung với
cả không gian sinh hoạt và lao động của hai miền biển và trung du: “Biển dưới em con cá chuồn ngon lắm/ Trên
nguồn anh trái mít phải lòng theo”. Nơi ấy
chính là mảnh hồn làng của nhà
thơ và của những đứa con đau đáu một miền quê!
Người
đi xa còn nhớ và thương biết mấy người dân quê xứ Quảng, nhớ và thương biết mấy
cha mẹ ngày xưa đã vất vả gian nan, vật lộn với cái đói, cái nghèo của đất quê.
Nơi ấy còn có bóng hình âm thầm làm lụng
của cha ta :“Cả đời cha cày bới lượm đói nghèo/ Vẫn khen đất mình chưa
mưa đã thấm”, của cả một đời mẹ ta
tảo tần, chịu thương, chịu khó: “Lận đận một đời quảy gánh gieo neo/ Nuôi
con lớn mẹ lên nguồn xuống biển”. Nhà thơ không chỉ bộc lộ nỗi niềm thương
nhớ đến quặn lòng mà còn tự hào bởi người dân đất Quảng giàu tình cảm, yêu quê
hương, cần cù, chịu thương, chịu khó. Ý thơ lan tỏa một nỗi niềm canh cánh, bâng
khuâng của những người con nhớ quê đến não cả ruột gan!
Lớn
lên trên mảnh đất đầy khó khăn mà nặng nghĩa tình ấy, lòng người xa quê - dẫu
đang sống giữa chốn phồn hoa đô hội - vẫn không nguôi nhớ về đất quê, nguyện
giữ mãi tấm lòng son sắt:
Đất dễ thấm - dễ mềm lòng quyến luyến,
Người đi xa nhớ muối mặn gừng cay
Quê
hương là cả một hồn thơ. Có xa quê mới thấy lòng mình trống trải, nỗi nhớ về
những địa danh thân thương như Miếu Bông, Hòn Kẽm Đá Dừng, sông Thu cứ dồn dập hiện
về trong tâm trí người xa quê như lời hối thúc : về đi, về với quê hương thân
thiết dấu yêu, dẫu quê ta “bên lở bên bồi”,
dẫu quê ta “Mỗi năm mỗi nước lụt cuốn
trôi”, dẫu quê ta còn vô vàn khó khăn, vất vả ! Mảnh đất ấy vẫn kiên trung,
bám đất , giữ làng như con người Quảng Nam đã từng hiên ngang trong bom rơi,
lửa đạn của chiến tranh ác liệt : “Cây măng sậy vẫn bám bờ xanh mãi”. Hình ảnh ẩn dụ ở đây như bộc lộ cốt cách, bản chất sắt son, chung
thủy, trước sau như một của con người Quảng Nam
như cây măng sậy vẫn gan góc vươn
lên trong giông bão.
Và không chỉ tình quê mà còn có một tình
cảm thiêng liêng khác thôi thúc mãnh liệt bước chân người xa xứ hãy mau quay về
trong những ngày tết cận xuân kề : đó là nỗi nhớ mong cháy lòng của cha mẹ từ
phương trời cũ:
Chắc vườn xưa chừ ửng vàng hoa cải,
Cha mẹ trông ta - mòn Hòn Kẽm Đá Dừng !
Lại vận dụng phương
ngữ Quảng Nam: chắc, chừ... nhà thơ liên tưởng đến một cảm xúc mới, một nỗi
nhớ mới.Vườn xưa hay chốn quê nhà có
luống rau cải mẹ trồng, có luống hành
ngò, luống tỏi mỗi độ xuân sang. Nỗi nhớ con của mẹ cha nơi chốn quê nhà được
hình tượng hóa bằng câu ca rất Quảng:
Ngó lên Hòn Kẽm Đá Dừng
Thương cha nhớ mẹ quá chừng bậu ơi!
Nỗi
nhớ trông con đến mòn cả mắt. Cách phóng
đại nỗi nhớ đến mòn cả Hòn Kẽm Đá Dừng.
Mượn sự vật để cách điệu nỗi nhớ của mẹ cha, thế mới biết tình cha nghĩa mẹ sâu
nặng biết dường nào!
Bài thơ đưa vào và vận dụng
thành công hình ảnh lẫn ý tình của những câu ca dao thân thuộc tự lâu đời với
bao người dân xứ Quảng. Không gian nghệ thuật của bài thơ, nhờ thế, chan chứa ân
tình. Có thể nói, cái chất dân gian, hơi thở của cuộc sống, cái hồn đất Quảng
như thấm sâu trong từng câu, từng chữ của bài thơ. Mộc mạc nhưng sâu lắng như ý
tứ lan toả từ câu ca mang hương đồng cỏ nội.
Về thôi em của Dương Quang
Anh như
tiếng chuông chiều đánh thức trong tiềm thức mỗi con người xứ Quảng xa
quê lúc Tết đến xuân về một tình quê dung
dị, yêu thương...
Tháng 12/2012
(Phan Văn Anh: gv Trường THCS Nguyễn Trãi- ĐL)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét