14/11/13

413. KỂ CHUYỆN THÀNH NGỮ HÁN VIỆT

          Nguồn: CRI - China Radio International
          1. Nhất minh kính nhân:
          Có ý chỉ người bình thường chẳng có tiếng tăm gì, những bỗng nhiên có lời nói, hành động sáng suốt (nhất minh) khiến mọi người phải kinh ngạc (kính nhân).
          Chuyện kể: Thời Xuân Thu Chiến Quốc, Tề Uy Vương lên ngôi vua vào lúc 13 tuổi, suốt ngày ăn chơi không hề quan tâm tới việc nước. Các đại thần trong triều đều vô cùng lo lắng, nhưng đều không ai dám khuyên can nhà vua. Có đại thần tên là Quách Vu Kinh một hôm vào cung nói với Tề Uy Vương rằng: "Hiện có một con chim khủng lồ đang đậu trên nóc cung điện của nước Tề đã bao năm rồi mà nó vẫn không hề cất cánh bay và hót lên một tiếng. Đại vương có biết vì sao không ?". Tề Uy Vương biết đây có ý ám chỉ mình bèn nói rằng: "Đó không phải là con chim bình thường, nó đã không bay thì thôi, mà đã bay thì có thể xuyên qua vạn tầng mây, kêu một tiếng là có thể làm kinh động cả thiên hạ". Từ đó, Tề Uy Vương không còm đắm mình trong tửu sắc nữa, mà dốc sức chuyên tâm việc nước, nhà vua triệu gặp 72 huyện lệnh trong cả nước, thưởng cho người có công, phạt kẻ có tội, đồng thời áp dụng một loạt biện pháp phát triển sản xuất, tăng cường lực lượng quân đội. Ít lâu sau, nước Tề trở nên dân giàu nước mạnh, nhà vua khởi binh đánh bại nước Ngụy, thu hồi đất đai bị lấn chiếm. Từ đó, nước Tề luôn là một cường quốc trong suốt 37 năm Tề Uy Vương tại vị.

          2. Khẩu mật phúc kiếm:
          Ý của câu thành ngữ này chỉ miệng ngọt như mật (khẩu mật) nhưng trong bụng thì đầy dao kiếm (phúc kiếm), rất hiểm độc.
          Chuyện kể: Lý Lâm Phổ là Binh bộ thượng thư kiêm Trung thư lang thời vua Đường Huyền Tông, ông là người có kiến thức sâu rộng, sành về mặt thư họa, nhưng ông cũng là người lòng dạ hẹp hòi và đố kỵ. Phàm những người có tài năng và chức quyền cao hơn mình là ông sẽ trăm phương nghìn kế bôi nhọ, bài xích. Nhưng đối với vua Đường Huyền Tông thì lại tỏ ra khúm núm, xum xoe nịnh hót. Mặt khác, ông tìm đủ mọi thủ đoạn mua chuộc quý phi và các thái giám hầu hạ bên cạnh vua, để củng cố thêm địa vị của mình.
          Khi tiếp xúc với mọi người, Lý Lâm Phổ đều tỏ ra rất hòa nhã, lời lẽ ngọt như mật nhưng bên trong thì nghĩ đủ cách để hại người ta. Một hôm, ông tỏ ra rất thành khẩn nói với bạn đồng liêu Lý Thức Chi rằng: "Hoa Sơn có mỏ vàng với trữ lượng cao , nếu được khai thác thì nhà nước sẽ nhanh chóng trở nên giàu mạnh, nhưng đáng tiếc là nhà vua còn chưa biết việc này". Lý Thức Chi tưởng thật mới đến tâu với vua Đường Huyền Tông, nhà vua mừng lắm liền gọi Lý Lâm Phổ đến để bàn việc khai thác. Lý Lâm Phổ tâu rằng: "Thần có biết việc này, nhưng ngặt vì Hoa Sơn là nơi phong thủy bảo địa của vua chúa các triều đại, ta nỡ lòng nào lại tùy tiện khai thác, đây phải chăng là ý đồ của một số kẻ xấu."
          Vua Đường Huyền Tông nghe vậy liền khen Lý Lâm Phổ là bậc trung thần và từ đó dần dần lạnh nhạt với Lý Thức Chi.
          Hiện nay, người ta vẫn dùng câu thành ngữ này để chỉ người ngoài miệng nói rất hay, nhưng trong bụng lại rất hiểm độc.
          3. Húy tật kỵ  y:
          "Húy" (giấu giếm), "Kỵ" (lo ngại, sợ), "y" (chữa trị bệnh); câu thành ngữ "Húy tật kỵ y" có nghĩa là giấu giếm bệnh tật của mình, ngại để thầy thuốc khám ra rồi chạy chữa thuốc thang, dùng để chỉ người giấu giếm yếu điểm và lỗi lầm của mình tránh bị người khác phê bình.
          Chuyện kể: Biển Thước là một danh y thời Chiến Quốc vào hơn 2 nghìn năm trước. Một hôm, Biển Thước đến yết kiến Sái Hằng Công, ông ngồi nhìn Sái Hằng Công hồi lâu rồi nói rằng: "Đại vương hiện đang mắc bệnh, mà bệnh hiện đang ở ngoài da, Đại vương nên chạy chữa cho nhanh". Sái Hằng công nói: "Khỏi phải chạy chữa, tôi chẳng có bệnh gì cả".
          Mấy hôm sau, Biển Thước lại đến yết kiến Sái Hằng Công. Biển Thước nói: "Đại vương, bệnh của ngài hiện đã lan xuống bắp thịt, nếu không chạy chữa mau thì sẽ càng nặng thêm". Sái Hằng Công nghe vậy không được vui lắm.
          Lại qua mấy ngày sau, Biển Thước lại đến gặp Sái Hằng Công và nói rằng : Bệnh của Đại Vương hiện đã lan sâu vào ruột gan, nếu không chạy chữa ngay thì nguy to". Sái Hằng Công không những không nghe, ngược lại càng thêm bực tức.
          Mười mấy ngày sau, khi Biển Thước đến gặp và nhìn thấy Sái Hằng công thì liền quay ngoắt người bước ra. Sái Hằng Công thấy lạ bèn sai người đuổi theo hỏi Biển Thước thì Biển Thước trả lời rằng: "Người đã mắc bệnh, khi bệnh còn ở ngoài da thì có thể bôi thuốc hoặc uống thuốc là khỏi. Khi bệnh lan xuống bắp thịt thì có thể châm cứu hoặc dùng đá bấm huyệt là khỏi. Còn khi bệnh đã lan vào ruột gan, thì vẫn có cách chữa khỏi được. Nhưng khi bệnh đã đi vào xương tủy thì quả là vô phương cứu chữa, nay bệnh của Đại Vương đã đi vào xương tủy, tôi thật không có cách nào cứu chữa được ".
          Năm ngày sau, Sái Hằng Công cảm thấy trong người đau nhức rất khó chịu, mới vội vàng sai người đi gọi Biển Thước, nhưng Biển Thước đã trốn sang nước Tần từ lâu. Cuối cùng, Sái Hằng Công chết vì bệnh. Hiện nay, người ta vẫn dùng thành ngữ: "Húy tật kỵ y" để ví với người giấu giếm những thiếu sót và lỗi lầm của mình tránh bị người khác phê bình.
          4. Thương hải biến vi tang điền:
          Chỉ biển cả biến thành ruộng dâu, dùng để ví sự thay đổi lớn lao.
          Chuyện kể: ngày xưa, có hai vị thần tiên là Vương Viễn và Ma Cô, hai vị hẹn nhau cùng đến dự tiệc tại nhà Sái Kinh.
          Đến ngày hẹn, Vương Viễn dưới sự hộ tống của đám tùy tùng đi sang nhà Sái Kinh, đến nơi chưa thấy Ma Cô đến nên cùng chủ nhà uống trà ngồi đợi.
          Nhưng đợi mãi vẫn chưa thấy Ma Cô đâu, Vương Viễn bèn sai người sang mời. Một lát sau người kia về báo rằng: "Ma Cô gửi lời xin lỗi tiên sinh, nàng nói lần trước gặp tiên sinh là vào hơn 500 năm trước, nàng hiện đang phụng mệnh đi thị sát Bồng Lai tiên đảo, đợi lát nữa sẽ sang gặp tiên sinh".
          Vương Viễn kiên trì ngồi đợi hồi lâu thì Ma Cô đến, nàng độ mười tám mười chín tuổi, dung nhan xinh đẹp, mái tóc tha thướt, váy áo của nàng lấp lánh hào quang. Mọi người chào hỏi nhau xong cùng ngồi vào bàn tiệc. Ma Cô nói với Vương Viễn rằng: "Từ khi đắc đạo đến nay, tôi đã ba lần thấy biển cả biến thành bãi dâu. Vừa rồi đi qua Bồng Lai thì thấy mực nước đã cạn đi một nửa, chẳng lẽ biển lại sắp biến thành lục địa?"
          Vương Viễn nói: "Đúng vậy, các thánh nhân đều nói mực nước biển đang rút xuống, chẳng bao lâu nữa nơi này sẽ biến thành lục địa cát bụi mù mịt".
          5. Lực bất tòng tâm:
          Lực bất tòng tâm (không đủ sức làm việc theo ý muốn) có xuất xứ từ Hậu Hán thư.
          Chuyện kể: Thời Đông Hán, Ban Siêu thừa lệnh Minh Đế dẫn đoàn người sang Tây vực lập được nhiều công lớn. Ban Siêu ở lại Tây vực 27 năm, khi ông mới sang Tây vực còn độ tuổi tráng niên, đến nay đã tuổi già sức yếu. Ông ngày đêm nhớ quê da diết đã viết một bức thư, rồi sai con đem về nhà Hán dâng lên Hòa đế Lưu Thiệu. Bức thư dâng lên đã lâu nhưng vẫn không được nhà vua để ý tới. Về sau, em gái Ban Siêu là Ban Chiêu cũng viết một bức thư dâng lên nhà vua, trong thư có đoạn viết: "Ban Siêu đã ngoài 60 tuổi, là người cao tuổi nhất trong số những người đi Tây vực, nay đã tuổi già sức yếu, đi đâu cũng phải chống gậy, nếu chẳng may Tây vực xảy ra bạo loạn, thì Ban Siêu thật không đủ sức làm việc theo ý muốn của mình. Như vậy chẳng hóa ra trên thì phụ lòng mong mỏi của triều đình, dưới thì phương hại thành quả do các bậc trung thần không dễ mà gây dựng nên, thật đau lòng lắm thay".
          Hòa đế xem thư xong vô cùng xúc động, nhà vua lập tức truyền chỉ điều Ban Siêu về nhà Hán. Ban Siêu về Lạc Dương chưa đầy một tháng thì qua đời, hưởng thọ 71 tuổi.
          6. Tâm khoáng thần di:
          Thành ngữ này có nghĩa: tâm hồn rộng mở.
          Đằng Tử Kinh và Phạm Trọng Yêm là bạn tri kỷ, hai người cùng thi đỗ tiến sĩ năm 1015 công nguyên. Năm 1044 công nguyên, Đằng Tử Kinh nhậm chức tri châu Nhạc Châu, sau đó xây dựng nên lầu Nhạc Dương, nhằm ghi nhận sự kiện này, Đằng Tử Kinh đã mời Phạm Trọng Yêu viết một bài phú. Phạm Trọng Yêm nhận lời rồi viết ra bài "Nhạc Dương lâu ký" , trong có đoạn viết: Trí nhược xuân hòa cảnh minh, đăng tư lầu dã. Tắc hữu tâm khoáng thần di, bàng nhục giai vong. Bả tửu lâm phong, kỳ hỷ dương dương giả hĩ.
          Có nghĩa là đứng trên lầu Nhạc Dương ngắm cảnh xuân hoa nở, nắng ấm chan hòa, tâm hồn rộng mở mà quên hết mọi sự vinh nhục, được mất. Bất giác cảm thấy mình như hòa nhập vào phong cảnh đẹp như tranh. Cùng bạn nâng chén trong làn gió vi vu, cảm giác say sưa ấy thật suốt đời khó quên.
          Về sau, câu "Tâm khoáng thần di" trong bài phú của Phạm Trọng Yêm đã trở thành câu thành ngữ được lưu truyền mãi tới ngày nay.
          7. Lão mã thức đồ:
          Lão mã thức đồ, tức ngựa già nhận biết lối đi, Câu thành ngữ này có xuất xứ từ Hàn Phi Tử, thuyết Lâm Thượng.
          Năm 663 công nguyên, nhận lời cầu viện của vua nước Yến, Tề Hằng Công cùng tể tướng Quản Trọng và đại phu Thấp Bằng đã khởi binh tiến đánh quân Sơn Nhung xâm lược nước Yến, nhưng khi quân Tề đến nước Yến thì mới biết quân Sơn Nhung sau khi vơ vét hết của cải nước Yến đang rút chạy về nước Cô Trúc. Quản Trọng khuyên Tề Hằng Công nên thừa thế đuổi theo diệt luôn cả nước Cô Trúc. Tề Hằng Công nghe theo, nhưng đuổi đến nơi mới biết quân Sơn Nhung và quân Cô Trúc đều đã bỏ chạy, quân Tề lại tiếp tục đuổi theo và cuối cùng giành được thắng lợi.
          Tề Hằng Công xuất binh là vào đầu xuân, nhưng khi thắng lợi trở về đã là mùa đông. Khi đoàn quân đi qua một thung lũng trên dãy núi Sùng Sơn thì bị lạc lối không sao tìm được lối ra, mà quân lương lúc này cũng đã vơi cạn, nếu không nhanh chóng tìm được lối ra thì cả đoàn quân tất bị chết đói trong thung lũng. Giữa lúc mọi người đang lo lắng thì Quản Trọng nảy ra một ý định là những con chiến mã, mà nhất là những con ngựa già rất có thể giống như chó nhận biết lối đi. Sau khi được sự đồng ý của Tề Hằng Công, Quản Trọng bèn lập tức chọn lấy mấy con ngựa già, tháo bỏ dây cương rồi thả cho chúng tự do đi trước hàng quân. Cuối cùng thì những con ngựa già này đã dẫn đoàn quân ra khỏi thung lũng thẳng tiến về nước Tề.
          8. Lão sinh thường đàm:
          Nguyên ý là chỉ lời nói cửa miệng của các ông đồ, chẳng có gì mới mẻ cả.
          Thời Tam Quốc có một người thông minh tháo vát tên là Quản Lộ, ông từ nhỏ say mê thiên văn, 15 tuổi thuộc lòng "Châu Dị" và nổi tiếng về thuật bói toán.
          Lịch bộ Thượng thư Hà Yên và Thị trung Thượng thư Đặng Dương là tay chân đắc lực của Tào Sảng cháu Tào Tháo, chúng ỷ thế làm càn, tiếng xấu đồn đại khắp nơi.
          Ngày 28 tháng 12 âm lịch, sau khi hai quan viên này đã cơm no rượu say, nhân cơ nhàn tản liền gọi Quản Lộ đến bói một quẻ. Quan Lộ vốn muốn trị cho hai vị này một trận, nên vui vẻ nhận lời ngay.
          Khi Hà Yên thấy Quản Lộ bước vào liền nói rằng: "Tôi nghe nói ông bói rất linh nghiệm, vậy hãy mau mau bói cho tôi một quẻ, xem tôi có được thăng quan tiến chức và được giàu sang hay không. Ngoài ra, mấy đêm nay tôi luôn nằm mơ có một con ruồi đậu trên sống mũi là lành dữ ra sao?". Quản Lộ nghe xong im lặng hồi lâu rồi nói: "Chu Công ngày xưa là một người thông minh chính trực, đã giúp Chu Thành Vương gây dựng nên nghiệp đế vương, khiến nhân dân được an cư lạc nghiệp. Nay chức vụ của ông còn cao hơn Chu Công, nhưng người được hưởng ân huệ của ông thì rất ít, mà người sợ ông thì lại nhiều vô kể. Hơn nữa, xét theo giấc mơ của ông thì đây là điềm dữ. Nếu ông muốn biến dữ thành lành, thì nên bắt chước các bậc thánh nhân như Chu Công chẳng hạn, phải gắng tu thân tích đức và làm nhiều việc thiện mới được". Đặng Dương nghe xong bèn đứng dậy nói: "Đây chẳng qua là lời nói cửa miệng của các thầy đồ, chẳng có ý nghĩa gì cả".
          Quản Lộ nghe vậy liền cười to nói: "Tuy là lời nói của các thầy đồ, nhưng chớ nên coi thường".
          Năm sau, Hà Yên, Đặng Dương và Tào Sảng đều bị giết vì mưu làm phản. Quản Lộ được tin bèn than rằng: "Do không tin đời thầy đồ mới đến nông nỗi này".
          9. Tẩy nhĩ cung thính:
          Nguyên ý là rửa tai xin lắng nghe. Nay thường dùng để nói đùa khi muốn nghe ý kiến của người khác.
          Vua Nghiêu nghe đồn Hứa Do là một cao sĩ tài ba nên muốn để ông làm vua thay mình. Khi nhà vua cử người đến gặp Hứa Do thì ông trả lời là mình không muốn làm vua, sau đó ông cảm thấy những lời nói của sứ giả đã làm bẩn tai mình, bèn vội vàng chạy ra sông Dĩnh rửa tai. Giữa lúc đó, Sào Phủ bạn của Hứa Do đang đưa trâu ra sông uống nước, thấy vậy liền hỏi tai sao. Hứa Do thuật lại sự việc rồi ấm ức nói: "Những lời nói kia thật là bẩn thỉu, tôi phải rửa cho sạch tai mới được."
Sào Phụ nghe xong liền trề môi nói: "Cũng là vì anh thích khoe khoang nên mới rắc rối như vậy, thôi đừng rửa nữa kẻo làm bẩn mõm trâu nhà tôi đang uống nước." Sào Phụ nói xong liền thong thả lùa trâu ra về.
          10. Điểu tận cung tàng:
          Ý của câu thành ngữ này là chỉ chim muông bị săn bắn hết rồi thì cung nỏ bị cất vào kho.
          Cuối thời Xuân Thu, nước Việt bị thất bại trong cuộc chiến với nước Ngô. Nhưng Câu Tiễn vua nước Việt không do đó mà bị đè bẹp, nhờ sự giúp đỡ đắc lực của Văn Chủng và Phạm Lãi, cuối cùng ông đã đánh bại được nước Ngô.
          Trong khi hai nước giao chiến, Phù Sai vua nước Ngô đã từng bảy lần xin cầu hòa với nước Việt, nhưng đều bị Văn Chủng và Phạm Lãi từ chối. Phù Sai đành viết một lá thư rồi dùng tên bắn vào doanh trại của Phạm Lãi, trong thư viết, ông đã không biết điều thì cảnh ngộ của ông cũng sẽ chẳng tốt đẹp gì. Phạm Lãi hiểu rõ điều này, nên sau khi diệt xong nước Ngô bèn lặng lẽ bỏ đi. Ông đặt quần áo bên bờ hồ, khiến mọi người lầm tưởng ông đã nhảy xuống hồ tự tử nên chẳng ai nhắc đến nữa. Một thời gian sau, Phạm Lãi viết một lá thư gửi cho Văn Chủng đại ý nói, sau khi chim muông bị săn bắn hết rồi thì cung nỏ sẽ bị cất vào kho. Khi thỏ rừng bị bắt hết rồi thì chó săn sẽ bị mổ thịt. Nay kẻ thù của nước Việt đã bị tiêu diệt, các đại thần có công người bị ruồng bỏ, người bị bức hại. Việt vương Câu Tiễn là người cạn tình bạc nghĩa, chúng ta chỉ có thể cùng ông ta chung hoạn nạn, chứ không thể cùng chung hưởng giàu sang phú quý. Nếu không sớm lo liệu thì tất sẽ nguy to.
          Văn Chủng bấy giờ mới hiểu tại sao Phạm Lãi lại bỏ đi. Từ đó, ông thường cáo bệnh không vào triều, thời gian lâu rồi cũng khiến Câu Tiễn nghi ngờ. Một hôm, Câu Tiễn đến thăm ông rồi cố ý để lại một thanh kiếm, Văn Chủng hiểu rõ ý vua thì bấy giờ hối hận đã quá muộn, đành phải ôm hận tự sát.
          Hiện nay, người ta vẫn thường dùng câu thành ngữ này để chỉ hiện tượng sau khi làm xong sự việc thì ruồng bỏ hoặc bức hại những người có công.

Không có nhận xét nào: