Mộc Nhân - Nhân ngày Nhà giáo Việt Nam
(Bài đã đăng trên "Tạp chí Dạy Học Ngày Nay" số đặc biệt tháng 11/ 2013)
(Bài đã đăng trên "Tạp chí Dạy Học Ngày Nay" số đặc biệt tháng 11/ 2013)
I. Tiểu sử:
Chu
Văn An tên thật là Chu An, tên chữ là Linh
Triệt, khi về ẩn cư thì xưng hiệu là Tiều Ẩn, sinh tại làng Văn Thôn, xã Quang Liệt, huyện Thanh Đàm (Thanh
Liệt, huyện Thanh Trì, Hà Nội). Sử sách không chép rõ ông sinh năm nào, nhưng
theo thần tích tại đình làng Thanh Liệt, nơi thờ ông làm Thành Hoàng, thì ông
sinh năm Nhâm Thìn 1292 và mất năm Canh Tuất 1370. Khi ông mất vua truy tặng
tước Công (tước lớn nhất trong năm tước mà người ngoài hoàng tộc có thể được
phong dưới thời phong kiến) kèm theo hai chữ Văn Trinh (Văn Trinh Công - vì vậy
người đời sau mới gọi ông là Chu Văn An) ban hiệu Khang Tiết Tiên Sinh và được
đem vào thờ trong Văn Miếu bên cạnh Khổng Tử xem ông ngang hàng với các bậc
thánh hiền ngày xưa. Đó là một điều hết sức hiếm có. Người dân ở làng quê của
ông thì tôn thờ ông làm Thành hoàng. Người ta gọi ông là “Đức thánh Chu”, “Đức
Thánh Văn”. Qua đó mới thấy, ngay cả khi đã qua đời, đạo đức của Chu Văn An vẫn
tiếp tục sáng ngời.
Danh
sĩ nổi tiếng thế kỷ 19 là Ngô Thế Vinh trong bài văn bia ở đền thờ Chu Văn An
đã giải thích hai chữ “Văn Trinh” như
sau: “Văn, đức chi biểu dã; Trinh, đức
chi chính cố dã”, tức: Văn là cái vẻ
đẹp bên ngoài của đức, Trinh là sự bền vững bên trong của đức, nghĩa là ngoại
mạo và tâm hồn Chu An đều đẹp cả.
Ông
là một nhà giáo, thầy thuốc, đại quan nhà Trần, nhân dân ta khi nói về thầy Chu
Văn An, ai cũng một lòng ngưỡng mộ, vì thầy là một bậc hiền nho, một tấm gương
tiết tháo, suốt đời không màng lợi danh. Thầy có công lớn trong việc truyền bá,
giáo dục tư tưởng đạo đức Khổng giáo. Nhận thấy tài năng và đức độ của thầy,
vua Trần Minh Tông(1314-1329) mời ra làm Tư nghiệp trường Quốc Tử Giám, dạy học
cho thái tử. Đến đời Dụ Tông - thời kỳ suy sụp nhà Trần - tình hình thế sự thay
đổi, vua quan ăn chơi sa đoạ, bọn gian thần tham nhũng, đục khoét dân nghèo
ngày một nhiều. Cảm xót trước vận mệnh nước nhà, thầy đã nhiều lần can ngăn và
dâng sớ chém 7 nịnh thần nhưng đều bất thành nên cáo quan về dạy học, viết sách
cho tới khi mất. Sự nghiệp của thầy con ghi và thờ tại Văn Miếu Quốc Tử Giám.
II. Thất trảm sớ:
Hơn 600 năm
trước, nhà Nho Chu Văn An đã một thời làm rạng danh cho giới sĩ phu, nêu cao
khí tiết thanh cao và thể hiện tinh thần chính trực “uy vũ bất năng khuất”. Ngày nay khi nhắc đến thầy Chu Văn An,
chúng ta thường liên tưởng tới “Thất trảm
sớ” với nội dung tâu chém 7 nịnh thần. Nhà Trần trải qua 12 đời vua: vua
đầu tiên Trần Thái Tông (1225), vua cuối cùng là Trần Thiếu Đế (1400) kéo dài
được 175 năm. Sau đó vào năm 1400 bị Hồ Quý Ly cướp ngôi. Thời vua Trần Dụ Tông
là thời kỳ bắt đầu suy sụp của nhà Trần. Năm 1357, sau khi thượng hoàng Minh
Tông băng hà, thì vua Dụ Tông được nắm trọn đại quyền (trị vì từ 1341-1369),
nước ta rơi vào cuộc khủng hoảng trầm trọng.
Trong nước, về
kinh tế: mất mùa, đói kém, sản xuất đình đốn, đời sống nhân dân bị đe dọa
nghiêm trọng; về xã hội, loạn lạc xảy ra khắp nơi, nông dân bất mãn, nổi dậy
chống lại triều đình; về chính trị, vua quan chỉ lo ăn chơi, tranh giành quyền
lực, bọn nịnh thần thâu tóm quyền bính, thao túng triều đình. Ngoài nước, nhà
Minh uy hiếp, đe dọa nền độc lập của Đại Việt. Thế mà nhà vua chỉ nghe lời xúc
xiểm của đám nịnh thần. Chúng mượn danh Hoàng
thượng để làm các việc, mà nhìn bề ngoài thiên hạ cứ ngỡ là chúng làm vì Hoàng
thượng nhưng kỳ thực là thao túng để đục khoét công quỹ, ăn chơi sa đọa, các
khoản chi tiêu cho Hoàng thượng chỉ một phần, còn vào túi chúng tới chín phần,
lại còn xúi giục nhà vua buông lơi việc triều chính. Đây cũng chính là những kẻ
gây bè phái, đấu đá lẫn nhau, làm mất đi sự đoàn kết trong vương triều Trần – sự
đoàn kết đáng quý đã từng giúp nhà Trần 3 lần đánh bại đạo quân hung bạo nhất
thế giới vào thế kỉ XIII – quân Nguyên Mông. Triều đình trở nên thối nát.
Chu
An đã nhiều lần can gián vua và cũng là học trò của mình nhưng nhà vua không
nghe. Cuối cùng ông đã hiên ngang dâng sớ xin chém bảy tên nịnh thần mà sử sách
gọi là “Thất trảm sớ” để mong cứu vãn nhà Trần. “Thất trảm sớ” của thầy Chu An là tiếng sét giữa trời quang – giáng
thẳng xuống đầu những kẻ xu nịnh; là tiếng chuông cảnh tỉnh nhà vua đang sa đà vào
cõi u minh; là tiếng gào thét phẫn nộ của kẻ sĩ trước thực trạng bê bối của
triều đình; là tiếng kêu đau xót của người trí thức trước tình cảnh lầm than
của đám lê dân; là tiếng nói của chính nghĩa can trường, đầy nghĩa khí. Theo
nhiều tài liệu thì trong Sớ có đoạn
viết: “Để giữ nghiêm phép nước, nối dòng
đại thống từ Thái tông cao hoàng đế tới nay, xin bệ hạ cho chém đầu bảy tên
gian thần trên, và tịch thu sản nghiệp của chúng, sung quốc khố, để làm gương
răn đe kẻ khác".
Tiếc
thay! Vua Trần Dụ Tông đã không nghe theo lời khuyên của thầy Chu Văn An nên vẫn
tiếp tục tin dùng đám gian thần; cũng có thể vua hoảng sợ, không đủ quyền lực
để ra tay tiêu trừ chúng. Đất nước vẫn đói khổ, loạn lạc. Nhân dân mất niềm tin
vào triều đình. Hiểm họa mất nước vẫn lơ lửng trên đầu Đại Việt. Cho đến nay
nội dung tờ sớ đó không ai biết, có thể lúc đó bọn gian thần đã hủy đi để
bịt miệng dư luận hoặc ai đó hủy đi để bảo vệ ông cũng nên.
Sau khi “Thất trảm sớ” bị nhà vua từ chối, thầy
Chu Văn An buồn bã vì bao nhiêu nhiệt huyết muốn cải tổ triều đình, muốn cứu
vãn đất nước, cứu vớt dân đen, cuối cùng đã tan thành mây khói; thầy Chu Văn An
đã treo mũ, từ quan, về quê dạy học. Thầy về mà vẫn đau đáu một nỗi niềm yêu
nước, thương dân nên không thể nhắm mắt ngủ yên khi giấc mơ cải tổ của mình
chưa thành.
Sớ
này ngày nay đã thất lạc nên không biết rõ chính xác tên của 7 tên nịnh thần mà
Chu An xin chém. Nhưng qua việc vua Dụ Tông từ chối lời đề nghị của thầy mình
là Chu An, cũng đủ thấy thế lực và ảnh hưởng của 7 tên nịnh thần ấy lớn dường
nào. “Thất trảm sớ” được người đời sau ca ngợi là “Thất trảm chi sớ nghĩa động càn khôn” nghĩa: Bài sớ xin chém bảy tên nịnh thần, nghĩa khí động tới trời đất (Việt
Giám Thông Khảo Tổng Luận - Lê Tung, TK XV) danh sĩ Nguyễn Văn Lý (TK XX) có
thơ “Thất trảm vô vi tồn quốc luận/ Cô
vân tuy viễn tự thân tâm” nghĩa: Thất trảm sớ không được thi hành, cả nước
bàn luận/ Đám mây lẻ loi tuy xa vẫn tự có tinh thần trong lòng.
Chính
sử không ghi rõ 7 gian thần mà Chu Văn An ghi trong "Thất trảm sớ" là ai. Theo cuốn "Vương triều sụp
đổ", tiểu thuyết lịch sử của nhà văn Hoàng Quốc Hải, NXB Phụ nữ - 2006,
thì bảy tên gian thần bị Chu Văn An xin nhà vua xử trảm, gồm:
1.
Hoạn quan chi hậu cục Mai Thọ Đức, kẻ cai quản phi tần và tuyển chọn mỹ nữ, đã
lạm dụng chức quyền bắt về vô số con gái nhà lương dân. Để nhiều người chết
trẻ, chết già vì mòn mỏi trong cung thất; lại bày ra các trò dâm ô trác táng
dẫn Hoàng thượng vào con đường vô đạo.
2.
Trâu Canh, viên ngự y phạm tội làm cho Hoàng thượng liệt dương từ năm 3 tuổi,
lại bày trò phục dương cho bề trên khi 15 tuổi. Y đã bắt cóc 21 đứa trẻ khỏe
mạnh con nhà lương dân, giết đi lấy mật làm thang cho bài thuốc hồi dương của
quan gia. Rồi y bày trò cho quan gia thông dâm với chị ruột mình, nói là phương
thuốc chữa trị. Trong khi chữa trị cho quan gia, y lại thông dâm với cung nhân
của chính quan gia. Trâu Canh là người Hán, cháu nội Trâu Tôn đi theo quân nhà
Nguyên vào xâm lược Đại Việt, năm Ất Dậu (1285) thất trận bị quân Đại Việt bắt,
y đã xin hàng, lại xin được cư trú. Nay Trâu Canh lộng hành, dẫn dắt đức vua
vào con đường thương luân bại lý.
3.
Bùi Khoan, Chính chưởng phụng ngự. Y bày trò cờ bạc rượu chè dơ dáy ngay trong
cung thất, dẫn đức vua vào mê lộ, bê tha như đám dân đen ngu muội.
4.
Văn Hiến hầu can tội gây bè đảng khiến các đại thần chia rẽ, ngờ vực lẫn nhau,
làm cho đức vua khó phân biệt người ngay kẻ nịnh.
5.
Hành khiển tả ty lang trung Nguyễn Thanh Lương, xảo trá, dẫn vua vào con đường
ăn chơi xa xỉ, tới cạn kiệt quốc khố.
6.
Hành khiển hữu ty, hữu bộc xạ Tâm Đức Ngưu đồng lõa với Nguyễn Thanh Lương tìm
đủ mọi cách tăng thu thuế khóa, tăng các sắc thuế từ thượng cổ chưa từng có, để
bòn rút của dân, lấy tiền chi vào các cuộc ăn chơi trác táng của hoàng thượng.
Kể cả những năm mất mùa đói kém, dân chết đói đầy đường, chúng cũng không tha
giảm.
7.
Đoàn Nhữ Cẩu, Đồng binh chương sự, bòn rút khẩu phần của lính, các đồ binh khí
đã cũ hỏng vẫn không chịu thay thế, để lấy tiền công bỏ túi. Y sao nhãng việc
luyện tập canh phòng biên cương phía Bắc, phía Nam gần như bỏ ngỏ. Hiện thời
Chiêm Thành đang ráo riết nhòm ngó miền châu Hóa.
Dù
chỉ là huyền sử nhưng với những tên người cụ thể, với những cáo trạng như vậy
cũng là một “giải mả thú vị”, thoả mãn lòng dân. Điều quý hơn hết là dân ta đã
một lòng ca ngợi và xem thầy như sao Đấu, sao Khuê, Cao Bá Quát cũng từng viết
:
Thất
trảm yêu ma phải rợn lòng
Trời đất soi chung vầng hào khí
Nước non còn mãi nếp cao phong.
Trời đất soi chung vầng hào khí
Nước non còn mãi nếp cao phong.
III. Sự nghiệp giáo dục:
Chu
An là người chính trực, không màng danh lợi. Ông đỗ Thái học sinh (tức Tiến sĩ)
nhưng không ra làm quan mà ở lại quê nhà mở trường dạy học. Về sau Chu Văn An
cũng có ra làm quan nhưng ông làm quan trong mục đích là đóng góp sức lực vào
sự nghiệp giáo dục đào tạo nước nhà, đào tạo những người có trọng trách quốc
gia, như làm thầy dạy các thái tử. Nếu không phải vì mục đích đó thì ông cũng
chẳng ra làm quan.
Chu
Văn An đã nêu lên những tiêu chuẩn về đạo đức nhà giáo, mà cho đến bây giờ
những quan điểm này vẫn còn nguyên giá trị. Đó là: "cùng lý" (hiểu phải cho đến nơi đến chốn), "chính tâm" (giữ lòng cho ngay
thẳng), "tịch tà" (trừ bỏ
thói hư, tật xấu, chống lại tà thuyết) và "cự
bế" (cự bế là ngăn ngừa cái dở). Bốn điều ấy đề cập đến những vấn đề
về kiến thức, về lương tâm đạo đức, về bản lĩnh của người thầy. Thời đó, mà ông
đưa ra vấn đề này có vẻ còn hơi sớm, bởi ở cuối thế kỷ 13 đầu thế kỷ 14, Nho
Giáo chỉ trong giai đoạn đang lên, nhưng chưa đến hồi cực thịnh. Chu Văn An đã
đi trước thời đại, và chính nhờ điều đó đã giúp ông trở thành người thầy giáo
có tính chất tiên phong. Ông có công lớn trong việc truyền bá giáo dục tư tưởng
Khổng Giáo ở Việt Nam. Học trò của Chu An lên đến vài ngàn người, xa gần đều
biết tiếng. Đến mức mà vua Trần Minh Tông vời ông ra làm Tư nghiệp Quốc tử giám
(tức "Hiệu trưởng" trường QTG).
Sự
nghiệp của Chu Văn An là sự nghiệp của một nhà giáo, khi còn ở quê thì ông mở
trường dạy học, khi làm quan Tư Nghiệp Quốc Tử Giám dạy thái tử và đào tạo
nhiều học trò thành những người giữ trọng trách quốc gia, khi từ quan lại trở
về quê dạy học. Học trò của ông cũng có người làm quan cao như Phạm Sư Mạnh, Lê
Quát giữ đến chức hành khiển (tể tướng). Trong lịch sử giáo dục Việt Nam, Chu
Văn An luôn được xem là biểu tượng của người thầy mẫu mực.
Chu
Văn An là thầy dạy của hai vị hoàng tử mà sau này đều trở thành vua là Trần
Hiến Tông (1329 - 1341) và Trần Dụ Tông (1341 - 1369). Như vậy, Chu Văn An làm Tư nghiệp Quốc tử giám
trải ba triều: Minh Tông, Hiến Tông và Dụ Tông. Khi "Thất trảm sớ" không được vua chấp nhận, Chu Văn
An lập tức cáo quan về ở ẩn tại núi Phượng Hoàng (Chí Linh, Hải Dương), lấy
hiệu là Tiều Ẩn, dạy học, viết sách cho tới cuối đời. Bên cạnh việc dạy học để
truyền bá đạo Thánh hiền, Chu An còn sáng tác nhiều sách vở trong đó có "Tứ Thư Thuyết Ước", "Tiều Ẩn Thi Tập" và "Quốc Ngữ Thi Tập", nhưng đều
bị người thời Minh cướp lấy mang về Tàu cả. Ông còn soạn một cuốn sách thuốc có
tên là "Y Học Yếu Giải Tập Chu Di
Biên".
Thời
đại Chu An là giai đoạn hậu chiến tranh chống quân ngoại xâm Nguyên-Mông. Sau
chiến tranh, thì việc dùng văn trị để định quốc an bang là điều tất yếu. Thế
nhưng câu hỏi đặt ra là phải dùng gì đây giữa ba tôn giáo khi ấy là : Nho,
Phật, Lão?
Khi
Phật giáo được các vua đầu nhà Trần coi trọng và thịnh hành, thì Nho giáo đóng
vai trò thứ yếu. Ban đầu chỉ có nhà chùa là nơi dạy chữ Nho và sách sử. Tuy
nhiên, ở thời đại Chu An, Nho học bắt đầu từng bước lớn mạnh. Nhiều nhà Nho và
thái học sinh không làm quan, về mở trường dạy sách Nho như trường hợp của Chu
An. Hệ thống trường lớp tại các địa phương được hình thành. Đó là những tiền đề
quan trọng để Nho Giáo dần tiến lên vai trò độc tôn trong hệ tư tưởng giáo dục
và chính trị thời Hậu Lê thế kỷ 15. Và đương nhiên Chu An có công không nhỏ
trong công cuộc phát triển Nho Giáo này bởi hệ thống trường lớp của Chu An là
nổi tiếng và có đến hàng ngàn học trò, và bởi mấy chục năm lèo lái con tàu giáo
dục của quốc gia trên cương vị lãnh đạo Quốc Tử Giám.
Trước
tác Tứ Thư Thuyết Ước của Chu An có thể được xem là một trong những diễn dịch,
bình luận và giải thích Nho Giáo sớm nhất của Việt Nam.
IV. Vạn Thế Sư Biểu
Các
sử gia phong kiến Việt Nam thời hậu Chu An đều không tiếc lời ca tụng đức độ
của ông, và luôn xem ông là Biểu tượng mẫu mực của người thầy giáo Việt. Sử gia
Ngô Sĩ Liên nhận định về Chu An trong Đại Việt Sử Ký Toàn Thư như sau:
“Người hiền được dùng ở đời thường lo vua
không thi hành điều sở học của mình. Vua thì dùng người hiền mà hay lo người
hiền không theo ý muốn của mình. Cho nên, vua tôi gặp nhau, từ xưa đã là rất
khó.
Nho gia nước Việt ta được dùng rất
nhiều, nhưng kẻ thì chỉ nghĩ đến công danh, kẻ thì lo làm giàu, kẻ chỉ xu phụ,
kẻ chỉ cốt ăn lộc giữ thân, ít ai chịu để tâm đến đạo đức, lo nghĩ việc giúp
vua nêu đức tốt để cho dân được nhờ. Tô Hiến Thành thời Lý và Chu Văn Trinh đời
Trần có lẽ cũng gần được. Nhưng Hiến Thành gặp được vua sáng nên công danh sự
nghiệp được thấy ngay đương thời, còn Chu Văn Trinh đời Trần không gặp được vua
anh minh nên chính học của Ông phải đến đời sau mới thấy được.
Văn Trinh thờ vua thẳng thắn mà can
ngăn, xuất xử thì làm theo nghĩa lý, đào tạo người tài thì công khanh đều ở cửa
nhà ông mà ra, tiết tháo của ông cao thượng đến thiên tử cũng không bắt làm bề tôi
được. Huống chi, tư thế đường hoàng mà đạo làm thầy được nghiêm, giọng nói lẫm
liệt mà bọn nịnh hót phải sợ. Ngàn năm về sau, nghe phong độ của ông, há kẻ
điêu ngoa lại không thành liêm chính, kẻ yếu hèn lại không biết tự lập hay
sao?”.
Phan Huy
Chú - một học giả lừng danh triều Nguyễn ca ngợi Chu An : "Học nghiệp thuần túy, tiết tháo cao thượng, làng Nho nước Việt ta
trước sau chỉ có mình ông, các ông khác không thể so sánh được”.
Vua Tự
Đức trong "Việt Sử tổng vịnh"
viết về Chu An như sau:
Thượng tường sơn đẩu thế gian sư,
Tâm dự nhân quai nhất khứ trừ.
Thất trảm sớ thành thiên địa giám,
Trực thanh bất cộng hữu Trần suy.
Tâm dự nhân quai nhất khứ trừ.
Thất trảm sớ thành thiên địa giám,
Trực thanh bất cộng hữu Trần suy.
Nghĩa
là:
Gian tà đâu để tung hoành,
Khí cao vằng vặc lưu danh sáng ngời.
Sớ dâng chứng với đất trời,
Không đang tâm sống cảnh đời suy vi.
Gian tà đâu để tung hoành,
Khí cao vằng vặc lưu danh sáng ngời.
Sớ dâng chứng với đất trời,
Không đang tâm sống cảnh đời suy vi.
Đức độ khiến được cả quỷ thần
Đức
độ của Chu An không chỉ được các bậc túc Nho ca ngợi, mà dân gian cũng dành
niềm kính ngưỡng. Một trong những minh chứng cho sự kính ngưỡng đó là câu
chuyện dân gian mang màu sắc dã sử về sự tích Đầm Mực được sử sách chép lại như
sau:
"Tương
truyền khi ông mở trường dạy học, rất đông học trò tìm đến thụ nghiệp. Trong số
học trò có một thanh niên, mặt mũi sáng sủa hôm nào cũng đến thật sớm. Ông khen
là chăm chỉ nhưng hỏi thì ngập ngừng không nói quê quán ở đâu. Ông cho người đi
theo thấy người đó đi đến đầm Đại (nằm giữa các làng Đại Từ, Tứ Kỳ, Huỳnh Cung)
thì biến mất nên ngờ là thủy thần.
Năm
đó, trời đại hạn, dân chúng khổ sở lắm. Một hôm, thầy Chu mới mở lời nhờ người
học trò nọ làm mưa cứu dân. Người học trò ấy tuân lời thầy mới ra đứng giữa
sân, lấy nghiên mực, ngửa mặt lên khấn, lấy bút thấm mực vãi ra bốn phương. Lúc
hết mực tung bút và nghiên lên trời. Lập tức, mây đen kéo đến, sấm chớp ầm ầm,
trời đổ một trận mưa thật lớn. Người học trò đội mưa đi về, ra đến cửa thì biến
mất. Sáng hôm sau, không thấy y trở lại học, Chu An cho người đến đầm Đại tìm
thì thấy một con thuồng luồng thật to chết nổi trên mặt nước. Ông thương xót,
sai học trò vớt xác mang về mai táng tử tế. Dân làng thấy vậy lập đền thờ, nay
vẫn còn. Chỗ nghiên mực ném lên rơi xuống nay thành đầm nước lúc nào cũng đen,
gọi là Đầm Mực. Quản bút rơi xuống làng Tả Thanh Oai, sau này là một làng văn
học nổi tiếng (quê hương Ngô Thời Sĩ, Ngô Thời Nhiệm triều Hậu Lê)".
Đức độ
của vị "Vạn thế sư biểu"
thể hiện ở mấy nét chính - những nét này cũng là biểu hiện xuyên suốt mọi quan
điểm, tư tưởng trong cuộc đời và sự nghiệp giúp nước giúp đời của ông, đó là:
1.
Là một người thầy rất giỏi (cùng lý):
Ông giỏi nên ông mới dạy được các lớp
học trò từ bậc quyền quý nhất như thái tử đến những người bình thường ở làng
quê. Đặc biệt, ở trường làng, ông có hàng ngàn môn sinh. Nức tiếng đến tận
triều đình. Thậm chí đến thủy thần cũng tìm đến học. Câu chuyện quỷ thần chỉ là
chuyện dã sử, nhưng qua đó cho thấy rằng ai cũng muốn đến học với thầy Chu Văn
An. Ông là nhà giáo đầu tiên của nước Đại Việt có nhiều học trò giỏi. Từ đó tạo
điều kiện cho cái học Khổng-Mạnh dần dần chiếm vị trí độc tôn trong nền giáo
dục Đại Việt.
2.
Là người thầy nghiêm nghị và mẫu mực (chính
tâm): Học trò của ông có người làm quan to, như Phạm Sư Mạnh hay Lê Quát
làm đến tể tướng, thế mà khi khi đến với thầy Chu Văn An các ông này vẫn phải
khép nép và thậm chí có khi còn được nhắc nhở, dạy bảo những gì mà thầy Chu Văn
An thấy cần phải nhắc nhở học trò.
3.
Là một thầy giáo có nhân phẩm trong sạch và tiết tháo (tịch tà và cự bế): Thấy
quyền thần làm điều trái đạo thì ông can gián và viết thất trảm sớ xin chém bảy
tên nịnh thần. Vua không nghe thì ông lập tức từ quan chứ không màng chi công
danh lợi lộc. Ông từ quan về quê dạy học, dạy dân, làm thuốc, viết sách… Chu
Văn An làm như vậy là để giữ nguyên cái đức sáng ngời, làm cho đạo học được
thâm sâu hơn ở chính ông và những người được ông tiếp tục đào luyện. Chính phẩm
chất thanh cao tuyệt vời ấy mà ông đã được người đương thời và đời sau ca ngợi,
tôn là “Vạn thế sư biểu”.
Sau
này nhiều người có cống hiến rất lớn lao, cũng là bậc tôn sư đạo cao đức trọng,
nhân cách thanh khiết, thuần nhã, khí phách, chính trực, kiên cường nhưng như Chu
Văn An thì không ai có thể sánh. Ông là một người thầy mẫu mực cho nền “lương
sư hưng quốc” Đại Việt. Lịch sử giáo dục Việt Nam từ xưa đến nay vẫn một niềm
tôn kính đối với Chu Văn An, đặt ông ở địa cao quý nhất, khả kính nhất, người
đứng đầu các bậc nhà giáo danh nhân đất Việt từ ngàn xưa.
Dù
nền giáo dục của thời thầy Chu Văn An và thời đại ngày nay là hoàn toàn khác nhưng
đức độ nhân cách ông vẫn còn những giá trị quý giá để thế hệ nhà giáo hôm nay
tự hào, tôn vinh và noi gương.
(Viết nhân kỉ niệm ngày Nhà giáo VN 20/ 11/
2013)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét