Trích Chương IX – Hồi ký Nguyễn Đăng Mạnh
Nhớ lại, lần đầu tiên tôi đến Xuân Diệu ở 24 Điện Biên là vào năm 1966. Cuối năm 1985 thì Xuân Diệu qua đời. Hai mươi năm quan hệ mật thiết với anh, tôi được tiếp chuyện anh không biết bao nhiêu lần. Đối với tôi, anh không dấu điều gì. Từ chuyện đời, chuyện văn, chuyện yêu ghét người này, người khác, chuyện ăn uống sao cho có sức khoẻ và sống lâu để viết, rồi chuyện kinh nghiệm viết với đủ ngón nghề cụ thể.
Cả chuyện khôn khéo luồn lách nữa để có thể đối phó với đời… Anh đã cấp cho tôi biết bao tri thức và kinh nghiệm, và đã khuyến khích tôi rất nhiều. Anh muốn tôi hiểu thật rõ, thật kĩ về anh để viết thật tốt về anh. Và về phần mình, tôi cũng muốn như vậy. Những lần trò chuyện với anh, nói chung, tôi đều có ghi lại. Giờ tôi muốn chép ra đây một ít, cố truyền đạt lại chính xác từ ý tứ tới giọng điệu của anh, mong muốn nhớ lại được con người cụ thể của anh, cá tính, tính cách cụ thể của anh. Nhân tiện, qua cái cuộc trò chuyện, cũng thấy được tâm lí xã hội cụ thể của giới cầm bút một thời và không khí lịch sử cụ thể của nền văn học ta mấy chục năm về trước.
Tối 8 – 6 – 1966, tại 24
Điện Biên.
Tôi đề cập đến Thơ mới.
Xuân Diệu nói, không
muốn nói chuyện Thơ mới. Mệt – Ngại lắm. Hãy dồn tinh lực cho hiện tại, làm thơ
chống Mỹ. Nhưng rồi anh lại nói sôi nổi về Thơ mới.
Anh rất tự hào vì người
ta vẫn chép thơ của anh. Đi bơm xe đạp, có một anh bơm cho rất kỹ, rồi gạ chép Thơ thơ. Năm 1954, gặp anh Lê Duẩn ở bến
phà Ròn, Quảng Bình. Lê Duẩn nói: “Thơ trước cách mạng của anh, tôi mê, thơ sau
cách mạng của anh tôi chưa mê”.
Xuân Diệu cho vấn đề
quyết định là vấn đề trái tim. Chúng tôi chỉ cần trái tim. Trái tim là “chép
thơ”. Có hai hệ thống tiếp nhận thơ mới: giảng officiel trong nhà trường và
việc chép thơ của thanh niên. Một điều rất bực là ở trường phổ thông người ta
cứ cho lãng mạn là xấu (Huy Cận có mặt lúc ấy, nói xen vào “quần chúng công
nông rộng rãi hơn các nhà nghiên cứu”). Tố Hữu đã từng ngâm Vạn lý tình và Tương tư chiều… Thời gian sẽ ủng hộ những phần tích cực của Thơ
mới. ở Liên Xô, người ta công nhận cả ba nhà thơ: Blốc, Êxênhin và Maiakôpxki.
Nhưng quan điểm của ông anh thứ hai (Trung Quốc) thì ghê quá! Tả còn hơn hữu,
sợ quá! Nhưng mà thôi, chả cần bàn bạc làm gì, chỉ cần người ta chép thơ tôi. Còn
thầy giáo, đánh giá hay dở, tốt xấu, học sinh nó không nghe đâu!
Xuân Diệu rất ghét người
ta cho thơ tình của anh là truỵ lạc. Anh nói: “Mình thuốc lá cũng không biết
hút, có thể nói là nhà quê”. Anh cũng rất ghét người ta cho anh là chịu ảnh
hưởng symbolisme và André Gide. Anh nói: “Đây là sự bắt gặp chứ không phải chịu
ảnh hưởng. Khi tôi làm thơ, tôi chưa đọc Gide, mãi đến khi ra Hà Nội, học lycée
mới đọc”.
Xuân Diệu cho khẳng định
ý nghĩa tích cực của sự ra đời của cái tôi cá nhân là đúng. Còn mâu thuẫn giữa
cái tôi và cộng đồng là mãi mãi. Cần hiểu ý thức cá nhân khác với chủ nghĩa cá
nhân.
Khi Xuân Diệu xuất hiện,
Thế Lữ trở thành démodé, rồi người ta không đọc anh nữa. Cái mốt lên tiên của
Thế Lữ là évasion nặng: Phải hiểu Xuân Diệu không phải tìm tòi về nghệ thuật mà
là cố tìm cách nói cho chân thật, có khi lời thơ sống sượng, Tây quá. Lúc đầu
người ta không thừa nhận là thơ, là có âm điệu, vì quen với cái du dương Thế Lữ
rồi. Xuân Diệu muốn giao hoà với mọi người mà không được. Cô độc. Buồn. Nhưng
không thoả hiệp. Muốn quẫy ra khỏi cái sầu, cưỡng lại cái sầu mà không được.
Nhưng lòng yêu đời vẫn mạnh hơn cái buồn.
Anh đồng ý với tôi:
“Đúng là thơ Xuân Diệu có cái mâu thuẫn: mùa xuân và tình yêu mâu thuẫn với
chiều thu và đêm lạnh. Nhưng tuy không đi với quần chúng, mình vẫn ghét bọn
giầu sang và xã hội kim tiền. Mình đi tìm lối thoát mà bế tắc. Nhưng nếu không
cô đơn thì thoả hiệp, thoả mãn với xã hội sao!”
Bỗng Xuân Diệu xoay ra
nói đến cái chết của Nguyễn Bính. “ Nguyễn Bính chết hồi Tết. Bất ngờ quá! Có
lẽ do thiếu bồi dưỡng”. Anh tỏ ra rất lo lắng.
Tối 10 – 8 – 1966, tại
24 Điện Biên. Xuân Diệu nói về tiểu sử của mình. Anh cũng nói nhiều về cái tôi
cá nhân cá thể (individu) và về Thơ mới.
“Đời ông tôi ở trong tứ
hộ nổi tiếng hay chữ ở Hà Tĩnh. Bố tôi là một ông tú kép, có vợ, vào Bình Định
lấy bà hai làm nước mắm ở Gò Bồi. Ông cụ học chữ Tây, đỗ primaire. Chỉ dạy học,
không thích ra làm việc nhà nước và không thích phải luồn cúi. Có học nghề
thuốc bắc.
Mình học ở cha tính cần
cù, lòng thương người, không thèm khát vươn lên xã hội quyền quý. 1934 đỗ
diplôme. 1935 ra Hà Nội học tú tài. Đỗ tú tài, học một năm luật. Năm 1941 thi
tham tá đoan. 1943 thôi làm đoan. 1944 tham gia Việt Minh. Tuy có chân trong Tự
lực văn đoàn, nhưng không tham gia tổ chức kinh tế với cánh Ngày nay. Rất yêu
quốc văn – Yêu quốc văn là có bao hàm lòng yêu nước - vì tiếng Việt đương thời
bị coi là tiếng vợ lẽ. Ở trường học hồi ấy có ba môn bị khinh bỉ: chữ Hán,
tiếng Việt và Vẽ.
Rất thích làm thơ. Nhưng
không évasion như Thế Lữ (tiên), Hàn Mạc Tử (điên), Chế Lan Viên (ma), Huy Cận
(siêu hình), Vũ Hoàng Chương (thuốc phiện), Nguyễn Xuân Sanh, Đoàn Phú Thứ (kín
mít, cho chữ vào hũ, lắc rồi xếp ra).
Nói Xuân Diệu là nói
individu. Phạm trù individu tư sản thoát khỏi ý thức hệ phong kiến là một tiến
bộ, là dân chủ hơn so với tư tưởng trượng phu, quân tử. Tất nhiên đói nghèo thì
không đòi hỏi ý thức cá nhân được. Khi cá nhân tách ra, tự riêng, tự phân biệt
với đại gia đình phong kiến thì có vui nhưng cũng có buồn. Tự biết mình, tự
phân biệt mình với người thì cảm thấy cô đơn. Ngày nay cũng thế thôi. Nhưng
Xuân Diệu dừng lại ở đấy, không thoát ly và vẫn lạc quan yêu đời, tuy cô độc.
Vì vẫn bám lấy cuộc đời, không thoát ly nên gặp cách mạng, theo cách mạng và
làm thơ ngay. Cái tôi Thơ mới như con bướm thoát xác. Lần đầu nó khám phá thiên
nhiên bằng con mắt tươi mới, không nhìn bằng ước lệ nữa – Thế Lữ vẫn chưa thoát
ước lệ. Cơ sở xã hội của Thơ mới là tiểu tư sản, không phải tư sản. Ông Trường
Chinh nói với hoạ sĩ Lê Lam: “Đi qua sông Hồng, tôi nhớ bài Tràng Giang của Huy
Cận. Ông nói với Huy Cận, khi làm bài Là thi sĩ, tuy có nói đến bài Cảm xúc của
Xuân Diệu, nhưng không phải để đả Xuân Diệu mà để vận động giác ngộ một người
lúc đó là cai khố đỏ. Anh này mê thơ lãng mạn. Có ba yếu tố tạo nên thơ Tố Hữu:
Tố Hữu, cách mạng và Thơ mới. Tố Hữu chịu ảnh hưởng thơ Xuân Diệu rất rõ “Ôi cô
đơn thấm lạnh tâm tình!”, “Xuân bước nhẹ trên cành non lá mới”…v.v…
Xuân Diệu khi tìm thấy
cái tôi của mình thì đâm sợ, muốn thoát mình. Bài Viễn khách, Lời kỹ nữ là thế.
Kỹ nữ là Xuân Diệu. Xuân Diệu tự đặt mình vào thân phận người bị dập vùi. Người
con gái khổ mà không gào to như anh đàn ông, tuy ít bị tình phụ hơn mà gào rất
to, như Musset.
Tình yêu là cái tuyệt
đích nên không bao giờ thoả mãn. “Nous mettons l’infini dans l’ amour. Ce n’est
pas la faute des femmes” Anatole France nói thế. Vì thế nous souffrons. Đó là
Xa cách, là Hi mã lạp sơn… Thế Lữ nói được cái buồn “Buồn ơi xa vắng mênh mông
là buồn”. Huy Thông thì romantique rất rõ: quay về quá khứ, về cái orient. Có
hình ảnh cái lầu La mã, cái rèm La mã. Mấy câu đầu của Tiếng địch sông Ô, Con
voi già… mở rất rộng, hay… Thơ Xuân Diệu cũ mà mới. Bài Viễn khách: “Đang lúc
hoàng hôn xuống, là giờ viễn khách đi”, có hơi hướng câu thơ cổ “Đương quân
hoài quy nhật, Thị thiếp đoạn trường thì”. Bài Nhị hồ, Vội vàng, Đây mùa thu
tới cũng thế, vừa cổ vừa kim. Tả mùa thu mà không hoàn toàn tàn lụi. Mùa thu
tropical, nhiệt đới. Baudelaire ca ngợi Phi Châu nhiệt đới. Mình ở vùng nhiệt
đới sao không ca ngợi cây cỏ tropical của mình. Còn cái cô đúc của thơ Xuân
Diệu thì bắt gặp Đường thi và Baudelaire, bắt gặp Symbolisme.
Cái quẫy của cá nhân
thực ra có từ Hồ Xuân Hương, Lâm Đại Ngọc, bắt đầu biết yêu theo kiểu cá nhân
(mình – ta) nên buồn. Lâm Đại Ngọc chôn hoa tức là chôn mình. L’Isolement của
Lamartine, René của Chateaubriand là thế…
Hàn Mạc Tử gắn với đời
hơn Chế Lan Viên. Chế Lan Viên không được độc giả chú ý lắm vì không nói gì
liên quan đến họ.
Tình yêu phải là một
phạm trù riêng. Không cứ phải nói tình yêu gắn với sản xuất, chiến đấu. Cứ nói
riêng nó thôi cũng được, miễn là lành mạnh. Phải nâng tình yêu lên thành khái
niệm. Hiện ta vẫn là giai cấp tự tại, tự nó, chưa có ý thức về tình yêu. Ta lấy
vợ mà chưa yêu. Chung thuỷ là vĩ đại thật, song chưa có khái niệm về yêu thật
sự. Yêu thật sự là mình với ta”.
Xuân Diệu xoay ra nói
kinh nghiệm làm thơ.
“Làm thơ không chỉ có ý
là được. Phải có xương thịt vật chất. Như cứ lấy giọng rê rê rê rồi bắt gặp một
nét nhạc thật sự. Có khi vì tìm được một câu thơ, một điệu thơ nào đó mà làm
thành cả một bài thơ. Khi nẩy ra một điệu nào đó thì nhất định phải làm theo
cái điệu ấy. Y như yêu mà chỉ có khái niệm trừu tượng thì không phải là yêu
thật. Phải trông thấy một người con gái, có cái mũi, cái tai như thế nào đó rồi
mới hình thành tình yêu…”
Ngày 4 – 7 – 1967. 24
Điện Biên.
Xuân Diệu nói say sưa về
cái anh gọi là “chiến thuật” nói chuyện với quần chúng sao cho hấp dẫn. Từ bố
trí nơi nói chuyện, ánh sáng thế nào, cửa đóng cửa mở, đến xếp ghế ngồi, cự ly
mùa hè, mùa rét… Và đối với người nghe thì phải làm cho họ không chán. Anh nói:
Phải “chim” quần chúng. Họ mê rồi thì tha hồ kéo họ đi, đi Tây Bắc, Tây Nguyên,
đâu cũng được. Khi trời tối, phải nói ngầm, thì ví với vợ chồng ban đêm nói
chuyện với nhau, vợ nói anh chồng thỉnh thoảng phải ờ ờ lên để chứng tỏ chưa
ngủ, vẫn nghe. Khi nói một chập, quần chúng tỏ vẻ chán, thì lại hỏi: “Phành
phạch trong lòng đã chán chưa?”. Khi nói muộn quá thì ví cái tình của người
ngoài 40 tuổi như nắng quái chiều hôm còn mạnh hơn ban trưa, “vì yêu một cách
truy lĩnh…” Nhưng mở đầu thế thôi, chủ yếu vẫn nói về kinh nghiệm làm thơ. Anh
nói có yếu tố vô hình trong đời sống và trong thơ: “Nhìn một người yêu cụ thể
có mặt mũi, tóc tai, song khi yêu thì cảm thấy được một cái gì đấy khái quát và
vô hình, thí dụ một tâm hồn trong trẻo, tươi mát. Nhà thơ có khi tả một buổi
sáng mùa xuân, đi hái một bông hoa. Nhưng cái hữu hình đó lại cốt để diễn đạt cái
vô hình: chẳng hạn cái cảm giác thoải mái tươi mát của tâm hồn…
Cái vô hình còn là cái
nhân tố không thú nhận inavoué. Trên đời, có anh cứ nói loanh quanh mãi, thực
ra có khi chỉ cốt đến để xin một bữa cơm. Cái inavoué có khi rất tầm thường, có
khi rất cao cả. Giảng thơ phải biết cái inavoué, cái vô hình đó và căn cứ vào
cái cái hữu hình mà phân tích ra. Làm thơ cốt cho hay, phải có tài có sắc mới
tồn tại được. Cần gì những thành kiến lung tung. Cốt quần chúng đọc thơ, cốt
hai trẻ yêu nhau, còn cô, dì, chú, bác nói ra nói vào thì cần gì!
Nghiên cứu Xuân Diệu,
phải nghiên cứu yếu tố thời gian. Xuân Diệu luôn luôn băn khoăn về thời gian.
Yêu cuộc sống, tất băn khăn về thời gian.
Con người sinh ra từ
thời gian. Mà thời gian có không gian của nó. Tính toán, cân nhắc điều gì, Xuân
Diệu đều nghĩ đến cái chết. Sợ chết thì phải làm thơ cho nhanh. Mẹ tôi mất, mẹ
Huy Cận mất. Các bà ấy từng có lúc sống thật trên đời không nhỉ? Nếu không tập
hợp, giữ gìn di vật còn lại thì có thể là chưa bao giờ từng sống.
Trong đời người ta có
những phút giao cảm – gọi là giao cảm mới thật đầy đủ, đầy đủ hơn là nói yêu.
Có khi giao hợp, hôn nhau mà không giao cảm. Có những lúc giao cảm thế mà sau
thôi không yêu nữa. Là vợ chồng rồi có khi mất cái phút ấy, thậm chí không lấy
nhau, có khi trông thấy nhau cứ lạnh như tiền. Lạ lắm ! Tình yêu muốn vô biên
song cuộc đời, lòng người nó hữu hạn. Và chết là hết cả. Như là cái tangente giữa plus infini và moins infini.
Đó là nói tình yêu bách niên giai lão. Có nhiều khi thay đổi người yêu. Vậy thì
phải hồi tưởng lại cái phút giao cảm ấy. Vợ chồng sở dĩ gắn bó với nhau là do
họ nhớ lại những phút giao cảm của tâm hồn ngày xưa. Kỷ niệm do đó rất quan
trọng trong đời sống tinh thần. Hiện nay, nhiều khi người ta sống chỉ để ăn
uống thôi, họ không có đời sống tinh thần. Tôi làm thơ để đem đến cho họ cái
khoái lạc tinh thần.
Thơ tình của tôi luôn là
sự hồi tưởng lại cái phút giao cảm ấy, trong thời điểm ấy, ngày ấy, buổi chiều
ấy, con đường ấy, cái chỗ cong cong ấy ta đã ngồi bên nhau (không gian có tính
thời gian). Bây giờ đi qua một mình, muốn dựng bia kỉ niệm ở chỗ ấy của cái
tình đôi ta.
Pháp có ba bài thơ nói về
kỉ niệm cũng nói đến cái không gian rất cụ thể. Tristesse d’ Olympio (V. Hugo)
Le premier regret (Lamartine) Premier souvernir (Musset).
Có lúc mình muốn để dành
tiền, nhưng nghĩ lúc chết thì có ý nghĩa gì. Có lúc muốn ăn thêm một miếng
thịt, nhưng ăn thêm rồi cũng chết. Để miếng thịt ấy cho đứa em ở xa, gọi về cho
nó ăn.
Tôi định lúc sắp chết sẽ
viết tất cả những mémoires xấu của mình, những cái tầm thường của mình. Hiện
nay người ta ít viết về cái đó.
Làm thơ, mỗi bài thơ nó
có cái vị riêng của nó như thịt bò thì phải làm món ấy, cái đó phải cho vào
nước chấm thịt vịt chứ cho vào nước chấm thịt gà thì hỏng. Cho nên có tứ thơ
nghĩ ra mà phải để dành đó đến lúc làm bài thơ đúng món mới đưa vào được”.
Ngày 1- 12- 1981, 24
Điện Biên
Tôi đến thăm Xuân Diệu, anh
mừng lắm: “Tưởng Mạnh giận mình không đến nữa. Hôm ấy mình nóng, nói sẵng.
Tưởng Mạnh giận”.
Thì ra anh hối hận vì
bữa ấy tôi đến mời anh tới dự một cuộc hội thảo về giảng thơ Hồ Chủ Tịch (anh
Hoàng Dung tổ chức, nhờ tôi đến mời Xuân Diệu), anh đã trả lời một cách thẳng
thắn và gay gắt: “Còn có gì mà nói nữa về thơ Cụ Hồ? Mình không đi đâu! Bây giờ
mà còn bình với giảng về thơ Cụ Hồ là nhảm nhí! nhảm nhí!”
Giờ thì anh rất niềm nở
tiếp tôi.
Lần này anh nói nhiều về
sự hình thành hồn thơ anh.
“Ông bố tôi sớm giác ngộ
tân học. Ông tự học tiếng Pháp. Mua từ điển học, ông còn tự học làm thuốc nữa.
Sau ông xin được một chân dạy chứ Hán ở Collège Quy Nhơn, lương 18 đồng. Một
loại chargé de cours thôi. Mình học bố đến hết cấp I, đỗ Certificat còn thiếu
một tuổi, phải học lại. Sau lên học collège. Đỗ diplôme năm 1934. Đúng lúc
khủng hoảng kinh tế. Định đi thi làm thừa phái nhưng không có điều kiện. May
sao được gọi ra Bắc kỳ học trường Bưởi. Biết Hà Nội. Biết Bắc Kỳ. Thấy được mùa
thu và cái lạnh Hà Nội. Rất thích, rất mê thiên nhiên Bắc kỳ. Mình dường như
được bừng tỉnh trước vẻ đẹp của đất trời, sững sờ trước những cành đào nở hoa ở
chùa Sinh Từ… Theo tôi romantisme chỉ có thể phát sinh, phát triển ở Bắc kỳ với
tác động của thiên nhiên bốn mùa phong phú. Hoa, hoa rất đẹp. Trại hoa Thuỵ
Khuê, gần Bưởi. Mùa thu Hà Nội tuyệt đẹp, lạnh hơn bây giờ. Trời trong, cao,
nắng vàng… Thiên nhiên Bắc kỳ, hoa Bắc kỳ đã đẻ ra văn Khái Hưng, Nhất Linh và
thơ Thế Lữ.
Thiên nhiên đi vào thơ
tôi, có cảnh mùa thu, mùa đông, mùa xuân của Bắc kỳ. Còn mùa hạ thì có trăng và
biển Quy Nhơn. Gió nồm Quy Nhơn có một cái gì rất sắc dục, rất charnel.
Mình học hết 2 ème
secondaire thì Huế mở ban tú tài. Bèn vào học 2ème secondaire ở Huế. Thế là lại
biết Huế. Mình ra Hà Nội đúng vào cái tuổi l’âge de puberté, thấy có một cái gì
rất sắc dục trong thiên nhiên và ở con người. Huế cũng rất đẹp, cũng rất tình.
Đặc biệt có cái lassif sắc dục rất Huế, nhưng kín hơn. Giọng hò Huế mê ly…
Năm 1940 mình thi tham
tá đoan và vào làm việc ở Mỹ Tho. 1943 Huy Cận đỗ kỹ sư canh nông, mình xin
thôi việc ra Hà Nội, học luật, ở với Huy Cận ở 61 Hàng Bông. Phong trào Việt
Minh phát triển. Huy Cận gặp Nguyễn Thành Lê. Lê đưa Huy Cận vào Đảng Dân Chủ
(Dương Đức Hiền lãnh đạo). Đảo chính Nhật. Huy Cận gặp Dương Đức Hiền ở Hà
Đông, được đưa lên chiến khu hoạt động cách mạng chuyên nghiệp. Khoảng 17- 8 gì
đó mình vào Hà Tĩnh lo thu xếp hai bên gia đình (của mình và Huy Cận) để Huy
Cận yên tâm đi chiến khu – nếu cách mạng không thành công thì có thể phải đi xa
(sang Tầu chẳng hạn). Ngày 20 – 8, mình trở ra Hà Nội giữa cảnh cờ đỏ sao vàng
bay trên các mái nhà…
Mình lúc đầu ở đảng Dân
chủ và tham gia quốc hội. Huy Cận làm bộ trưởng. Lúc ấy mình không ưa Nguyễn
Tuân và Nguyễn Tuân cũng không thích mình. Anh ấy vẫn khăn xếp, áo gấm, rất
chướng. In Nguyễn, đề “Kính tặng Tôi”. Mình viết bài trên Tiên phong (kí tên
Triều Mai) chế giễu: Nguyễn Tuân tự đặt mình lên bàn thờ rồi sì sụp lễ bái
mình. Kể cũng hơi hẹp hòi. Mình còn viết bài phê phán Nguyễn Hải Thần là đứa
con đi xa về chửi mẹ nó, không nhận mẹ nó. Rồi làm thơ đả bọn Quốc dân đảng.
Khi bọn Quốc dân đảng tổ chức biểu tình “tổng đình công” chống tổng tuyển cử,
mình dắt cái xe đạp Hirondelle đi ở phía sau. Mình bảo đồng bào đừng đi theo
bọn phản động. Chúng nó thấy thế định bắt mình, mình vội bỏ xe đạp lẩn đi. Sau
có người đem xe đạp trả cho. Mình còn bảo đồng bào tập trung ở Bắc Bộ phủ để
hoan nghênh chính phủ lâm thời. Mình lúc ấy chỉ là Việt Minh, ở Văn hoá cứu
quốc, chẳng phải đảng viên. Cứ tự động, tự phát thế thôi”.
Rồi mình làm bài Ngọn quốc kì, ca ngợi cờ đỏ sao vàng.
Nguyễn Huy Tưởng ở văn hoá cứu quốc (đóng ở trụ sở Hội khai trí tiến đức, nay
là Cục Hàng không) commăng làm để đối lại với bọn phản động tung ra đủ thứ cờ
táp nham: sao trắng, ba gạch…
Có người cho mình là cơ
hội chủ nghĩa. Báo Thiết thực của
Quốc dân Đảng (cánh Ngày nay) vẽ hình chế giễu: Cụ Hồ đứng như con cò câu cá ở
suối.
Xa xa, Huy Cận tắm. Còn
mình là con chim đầu xù ngồi trên cây hót. Mình lấy làm tự hào về bức tranh
này.
“Năm 1946, mình ở trong
một đoàn văn nghệ đi vào Buôn Ma Thiêng, Củng Sơn, đi sau đoàn Nguyễn Tuân. Trở
ra Thanh Hoá, lúc Hồ Chủ Tịch đang ở đó. Bác định lập một chiến khu ở Thanh
Hoá. Bác ở một cái nhà Xéc (câu lạc bộ) gì đó. Hôm sau bọn Pháp bắn súng vào
cái nhà ấy. Hôm trước Bác nói chuyện với đồng bào. Người ta chen nhau xem
Hồ Chủ Tịch, có người bị gẫy tay mà vẫn phấn khởi.
“Huy Cận thì theo chính
phủ đi Hà Đông. Mặt trận Trúc Sơn vỡ, lại đi Sơn Tây rồi lên Việt Bắc, ở Bắc
Cạn thì phải. Mình cũng đi Bắc Cạn. Nó nhẩy dù Bắc Cạn. Mình về Đại Từ. Rồi đi
Phú Thọ, qua Bắc Giang, từng ở chỗ Nguyên Hồng, Ngô Tất Tố. Nhưng sau lên ATK
làm đài phát thanh, trong khi Tố Hữu, Nam Cao làm báo Cứu quốc”.
Nói đến đấy, Xuân Diệu
dừng lại uống nước. Anh nghỉ hơi một lúc. Tôi nhân đấy gợi ý anh chuyển hướng
sang nói về thơ của anh. Nói chuyện thơ, anh càng tỏ ra sôi nổi hơn: “Huy Cận
là xúc giác, Xuân Diệu là mũi: khứu giác: “Hoa bưởi thơm rồi đêm đã khuya” –
Mình học Baudelaire. Chế Lan Viên không có da, không có mũi.
Bài “Mông lung” rất Xuân
Diệu. Có cái không thể xác định rõ ràng là linh hồn hay xác thịt. Đằng sau linh
hồn là cái nền xác thịt, sắc dục. Hít thở xác thịt của vũ trụ, cảm thấy mùi da
thịt của…, không biết của ai, song rõ ràng là cảm thấy cái mùi vật chất da thịt
của những Dương Quý Phi, của những người đẹp tự thuở nào. Hương da thịt tẩm
trong vũ trụ. Và nhớ, không biết nhớ ai, nhưng nhớ da diết. Thơ Xuân Diệu cảm
và diễn tả được cái không rõ mà rất rõ, cái nửa linh hồn, nửa xác thịt, dâm mà
trong sạch, trong sáng. Nó là cái rạo rực, cái uể oải của Huế, cái hồng hào của
Hà Nội, cái charnel trong gió nồm, trong gió biển Quy Nhơn…
(Xem tiếp phần 4)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét