Trích Chương IX – Hồi ký Nguyễn Đăng Mạnh
Bây giờ Xuân Diệu mất
rồi. Tất cả ở trong tay Huy Cận. Có lần tôi định dùng mẹo để lấy ra từ tay Huy
Cận. Tôi hướng dẫn một cô sinh viên làm luận văn cao học, tên là H T H,
về Lửa thiêng. Cô này khá xinh đẹp, lại khôn ngoan. Tôi giới thiệu cô đến
Huy Cận để hỏi han, trao đổi, dần dà thân mật, sẽ mượn cho tôi tập bản thảo
kia, lúc đầu là bản thảo Lửa thiêng của Huy Cận, sau đến bản thảo Thơ thơ,
Gửi thương cho gió của Xuân Diệu. Bây giờ sẵn photo rồi, chỉ cần mượn ra
nửa tiếng đồng hồ là có thể chụp được hết.
Tôi đã thất bại. Huy Cận
tìm cách lợi dụng cô này mà không chịu mất gì. Thái độ gạ gẫm lộ liễu, rất tởm,
đại khái đặt tập bản thảo bên cạnh, cầm tay cô và nói: “Phải thế nào mới cho
mượn chứ!”. Sau này tôi mới biết, đừng hòng lấy không một cái gì ở ông ta. Anh
Hà Minh Đức đã bị một vố rất đau: trả ông ta mấy triệu để lấy bút tích và bức
ảnh của ông thời trẻ. Anh chỉ nhận được một bản photo! ảnh cũng photo!
Tôi không hiểu sao Xuân
Diệu lại có thể tin cậy Huy Cận đến thế. Ông bạn này đã gây khó khăn cho người
ta nghiên cứu Xuân Diệu, lại định dùng tài liệu của Xuân Diệu để kiếm chác. Cái
phòng ở của Xuân Diệu, dù cho vốn thuộc quyền sở hữu của Huy Cận, lẽ ra cũng
nên giữ nguyên để làm bảo tàng ông bạn. Huy Cận đã xoá hết dấu vết, dọn dẹp đi
hết. Rồi hai bố con tranh nhau. Vậy là người có tội lớn nhất đối với Xuân Diệu
lại chính là ông bạn thân thiết số một của anh. Xuân Diệu muốn sống mãi trong
lòng người. Đó là điều anh tha thiết nhất lúc sinh thời. Vậy mà chính ông bạn
“quý” kia đã phản lại anh ở chính cái điều anh vô cùng tha thiết ấy.
Tuy nhiên tìm hiểu quan
hệ giữa Huy Cận và Xuân Diệu, thấy tình bạn thân thiết giữa hai người là có
thật. Năm 1940, sau khi đỗ tú tài, Xuân Diệu học luật một năm rồi thi vào ngạch
tham tá nhà đoan và được điều vào làm việc ở Mỹ Tho cho đến 1943. Thời gian này
Huy Cận vẫn đi học. Khi Huy Cận đỗ kĩ sư canh nông, có việc làm, Xuân Diệu liền
xin thôi việc trở lại Hà Nội ở với Huy Cận, sống nhờ vào lương Huy Cận. Nguyễn
Công Hoan nghe nói chuyện này, hỏi: “Thế không sợ Huy Cận nó đá đi à? Lúc ấy
thì sống bằng gì mà bỏ việc?” Xuân Diệu nói: “Lúc bấy giờ tôi không hề nghĩ đến
tình huống đó”. Đúng là lãng mạn! Tôi biết, thời Tây, tham tá (commis) thuộc
loại viên chức cao cấp, lương khá lắm. Bỏ đi dễ dàng như vậy quả là rất lãng
mạn và tỏ ra tin tưởng tuyệt đối ở tình bạn. Tuy nhiên tình huống “Huy Cận đá”,
tôi nghĩ khó xảy ra. Vì Huy Cận nhà nghèo, tuy có học bổng nhưng còn phải nuôi
hai em đang học ở Thanh Hoá. Xuân Diệu thường giúp đỡ bạn rất cụ thể. Thời gian
làm tham tá đoan ở Mỹ Tho, anh cứ đều đều gửi ra cho Huy Cận mỗi tháng 10 đồng.
Khi Huy Cận tham gia cách mạng, Xuân Diệu còn vào tận quê Hà Tĩnh, lo thu xếp
gia đình cho Huy Cận để bạn an tâm công tác. Mặt khác, trong hoạt động sáng
tác, Huy Cận cũng cần một chỗ dựa là Xuân Diệu. Xuân Diệu sớm có chân trong Tự
lực văn đoàn, như vậy là có thanh thế lắm (Huy Cận tha thiết xin vào Tự lực văn
đoàn nhưng không được chấp nhận).
Tôi đã được chứng kiến
Huy Cận sẵn sàng quy phục và tỏ ra phụ thuộc vào Xuân Diệu như thế nào: Hôm ấy
tôi đến Xuân Diệu, thấy Huy Cận ở trên gác xuống, ăn mặc chỉnh tề, cứ loanh
quanh ở căn phòng của Xuân Diệu. Thấy tôi, Huy Cận khoe vừa dịch bài thơ tình
của Arvers (Sonnet d’Arvers): “Mon âme a son secret, ma vie a son mystère”. Bài
này đã có một bản dịch rất được truyền tụng của Khái Hưng “Lòng ta chôn một
khối tình, Tình trong giây lát mà thành thiên thâu…”. Huy Cận đã đọc cho tôi
nghe bản dịch của anh và lấy làm đắc ý: “Tôi dịch sát nghĩa hơn bản dịch của
Khái Hưng chứ!” Xuân Diệu mắng luôn: “Dịch sát nghĩa mà là hay à?”
Xuân Diệu rót nước ra
cốc mời tôi uống. Huy Cận hỏi: “Nước mơ hả?”. Lại bị Xuân Diệu mắng: “Mơ mơ cái
gì, làm gì có mơ!” Thấy Huy Cận cứ nói chuyện với tôi, Xuân Diệu lại mắng nữa:
“Anh Mạnh anh ấy đến chơi với tôi chứ, sao cứ nói mãi thế!”.
Tôi rất lấy làm lạ: Sao
Xuân Diệu cứ mắng Huy Cận như mắng con nít mà toàn chuyện chẳng đáng gì cả!
Thì ra sáng hôm ấy, Huy
Cận hẹn với Quang Huy ở Nhà xuất bản Văn học tới làm việc về một tuyển tập thơ
của mình, cho nên ăn mặc chỉnh tề và cứ loanh quanh ở tầng một, phòng Xuân
Diệu.
Một lát, Quang Huy đến.
Huy Cận ra làm việc với Quang Huy ở phòng ngoài. Xuân Diệu giải thích với tôi:
“Dạo này làm được mấy bài thơ, cứ hoắng lên. Mình phải mắng cho cụt hứng đi, đỡ
chủ quan. Cứ tưởng bở!”
Làm việc với Quang Huy
một lát, Huy Cận chạy vào báo cáo với Xuân Diệu, đại khái nói, Huy đề nghị bỏ
mấy bài nào đấy và Cận thấy cũng phải.
Xuân Diệu nổi nóng:
“Không bỏ! Sợ mất ghế thứ trưởng à?” Huy Cận nhăn nhó: “Khổ quá, sợ gì đâu.
Thấy Huy nó nói cũng có lý”. Thì ra tuyển thơ của mình như thế nào, Huy Cận
cũng phải báo cáo với Xuân Diệu.
Xuân Diệu đúng là chỗ
dựa của Huy Cận trong đời và trong sáng tác. Nhưng khi ông bạn chết rồi thì còn
cần gì nữa. Máu tham và thói ích kỉ, bần tiện liền trỗi dậy và giết chết luôn
tình bạn.
Xuân Diệu không chỉ cần
cù đọc sách, làm thơ, anh còn rất chăm chỉ đi nói chuyện. Đâu mời cũng đi. Đối
tượng nào cũng nói. Các bà cấp dưỡng, các nông trường viên mời cũng đi ngay.
Lại còn gợi ý cho người ta mời nữa. Anh thường nói với tôi khi lâu lâu tôi
không mời anh nói chuyện với sinh viên: “Phải khẩn trương khai thác mình đi
chứ!”. Đối với mỗi đối tượng, anh đều rút kinh nghiệm nói sao cho hấp dẫn. Anh
tính toán rất tỉ mỉ, từ sự sắp xếp nơi nói chuyện ra sao, cự li người ngồi nghe
thế nào, mùa hè khác, mùa đông khác, thỉnh thoảng lại phải xen vào một câu
chuyện vui cho không khí đỡ tẻ. Đặc biệt anh hay kết hợp phổ biến “sinh đẻ có
kế hoạch” (không hiểu sao Xuân Diệu luôn luôn lo lắng đến chuyện này). Anh nói
một hồi mà không thấy vỗ tay, rất dễ mất hứng. Nhiều khi không kiên nhẫn được
nữa, anh hỏi thẳng người nghe: “Sao, có thích không? Thích thì phải vỗ tay lên
chứ!”
Xuân Diệu rất sợ thái độ
lạnh nhạt, dửng dưng. Anh cho có nhiều thằng đàn ông rất ngu, vợ nấu cho món ăn
ngon, cứ chén hùng hục mà không biết khen lấy một câu. Tôi nhớ câu thơ của anh:
Em có tài nấu nướng
Anh có tài ngợi khen.
Xuân Diệu thích nói
chuyện với giáo viên nhất. Đầu năm 1985, Hữu Thỉnh, sau đại hội nhà văn lần thứ
III, là uỷ viên chấp hành phụ trách nhà văn trẻ. Anh mời chúng tôi đi Tuyên
Quang bồi dưỡng một lớp nhà văn trẻ ở các tỉnh miền núi phía Bắc. Đoàn có Xuân
Diệu, Chính Hữu, Lê Lựu, Nguyễn Thành Long, Vương Trí Nhàn và tôi.
Giáo viên trường Cao
đẳng Sư phạm Tuyên Quang, nhân dịp này, mời Xuân Diệu đến nói chuyện. Hôm sau
họ lại mời tôi. Xuân Diệu bảo tôi: “Giáo viên họ mời thì nên đi. Nói chuyện với
giáo viên lợi lắm. Nói với người khác, một người nghe là chỉ một người. Nói
chuyện với giáo viên, một người nghe bằng hàng trăm người. Vì các thày cô giáo
lại nói lại với học sinh của mình”.
Đi nói chuyện là một yêu
cầu tự thân của Xuân Diệu. Anh có nhu cầu được tiếp xúc và trò chuyện với nhiều
người, thật nhiều người. Cho nên ở mấy ngày với anh ở Tuyên Quang, tôi thấy anh
đi nói chuyện liên miên. Nói sáng, nói chiều, nói tối, khản cả cổ. Được có thêm
một người biết đến mình, anh sướng lắm. Cho nên anh thường nhắc đi nhắc lại câu
chuyện về một anh hàng nước mía nào đấy ở Tuy Hoà (Phú Yên) biết anh là nhà thơ
Xuân Diệu và đãi anh một cốc nước mía bốn đồng: “Thi sĩ cỡ như tôi có thể được
tổng thống mời tiệc ấy chứ. Nhưng được một anh hàng nước mía biết đến, khó
lắm!” Xuân Diệu nói một cách đầy tự hào.
Xuân Diệu luôn luôn có ý
thức bảo vệ Thơ mới và văn học lãng mạn. Ai đụng đến Thơ mới là không xong với
anh. Anh ghét Vũ Đức Phúc, Phạn Cự Đệ, Lê Đình Kỵ là vì thế. Anh không ưa cả
Hoài Thanh vì tác giả Thi nhân Việt Nam vốn rất mê Thơ mới là thế mà nay lại
quay ra phê phán Thơ mới quá gay gắt (Tố Hữu cũng phải nói: “Hoài Thanh tát mình
quá đau”). Anh cũng luôn luôn đấu tranh cho sự tồn tại chính đáng của cái tôi
cá nhân và thơ tình. Vấn đề này, ngày nay chẳng ai còn thắc mắc. Phải là kẻ gàn
dở hoặc ngu tối lắm mới phủ định cái tôi cá nhân và thơ tình. Nhưng sinh thời
Xuân Diệu, nghĩa là khoảng đầu những năm 1980 trở về trước, đấu tranh cho sự
khẳng định cái tôi cá nhân và thơ tình là cả một thái độ dũng cảm. Tôi nhớ thời
chống Mỹ, có lần anh nói với tôi: “Mỗi lần in một tập thơ, mình phải đưa ra
trước hàng loạt bài chống Mỹ như một cái đầu tầu xe lửa, sau đó, xen vào những
“toa” thơ chiến đấu, lén lút mắc vào một cái “toa” thơ tình cho nó kéo ào đi”.
Nhưng thơ tình của anh lúc bấy giờ nhiều khi không hẳn là thơ tình, không dám
là thơ tình thật sự. Đó nhiều khi chỉ là thơ của cái nghĩa vợ chồng (Anh chờ em
về ăn cơm, Đứa con của tình yêu, Em làm bếp… Tôi gọi thế là thơ về “giai đoạn
văn xuôi” của tình yêu) hoặc phải gò theo khẩu hiệu “vui duyên mới không quên
nhiệm vụ” thường thấy giăng lên ở những phòng cưới thời chiến tranh… Ngoài ra, về
tình yêu, trái tim anh cũng không còn cái cuồng nhiệt, cái mãnh liệt như thời
trước. Mà không say đắm cuồng nhiệt thì làm sao tạo được thơ tình thật sự!
Vào những năm 60, 70, 80
của thế kỉ trước, Xuân Diệu bỗng làm rất nhiều thơ tình. Số lượng gấp bội so
với thơ tình trước cách mạng. Vào năm 1961, ở anh dường như có một sự thức tỉnh
trở lại về tình yêu. Anh nói: “Năm 1961, do một mối tình đến với mình mà mình
cảm thấy tình yêu thật sự sống lại mạnh mẽ. Hoá ra “Đáy chĩnh vét rồi, hãy còn
hạt gạo” – giống như như câu thơ của Baudelaire “Un brin de paille brille
encore dans l’étable”. Anh định làm một cuốn từ điển về đủ các trạng thái của
tình yêu: nhớ, ghen, hờn – dỗi, rồi lúc thức, lúc ngủ, khi ăn, khi uống…
Nhưng dư luận không đánh
giá cao thơ tình của anh sau cách mạng. Tôi cũng thấy như vậy. Nguyễn Kiên nói
đúng, thơ tình Xuân Diệu sau cách mạng dùng kỹ thuật nhiều hơn là có tình yêu
thật với một đối tượng có thật. Cách làm thường là thế này: dựa vào một chi
tiết có thể có rồi phóng đại lên, ngoa ngôn lên cho thành say đắm. Chẳng hạn,
em gửi cho anh một bức thư, nói nhớ anh. Thế là như đang đi giữa sa mạc bỗng
thấy nhân loại quanh mình. Hoặc là, em có vẻ lạnh nhạt, anh buồn quá. Nhưng một
bữa cơm, em gắp cho anh một miếng thịt bằng ngón tay, thế là:
Anh ăn như miếng ngọc
Dạ vui sướng nghẹn ngào
Nghĩ tình em vô tận
Khi bỏ vào bát anh…
Đúng thế, bản thân kỹ
thuật không bao giờ tạo ra thơ. Trước cách mạng, anh có dùng kỹ thuật gì đâu mà
đúng là thơ tình:
Anh nhớ bóng, anh nhớ
hình, anh nhớ ảnh,
Anh nhớ em, anh nhớ lắm
em ơi!
Dù sao thì cũng có một
thời, Xuân Diệu cũng đã từng là nhà thơ tình số một ở nước mình. Và đến bây
giờ, liệu đã có ai vượt được? Có một hồi, người ta cứ đồn Xuân Diệu ái nam ái
nữ. Không rõ hư thực thế nào. Rồi anh cưới Bạch Diệp. ái năm ái nữ sao lại lấy
vợ? Nhưng được mấy tháng, Bạch Diệp bỏ luôn. Vậy là sao?
Thực ra Xuân Diệu chỉ
mắc chứng đồng tính luyến ái và bất lực trong quan hệ tình dục, chứ không ái
nam ái nữ.
Hồi kháng chiến chống
Pháp, tôi công tác với anh Lã Hữu Quỳnh ở Sở Giáo dục Liên khu Việt Bắc (Anh
Quỳnh là một nhạc sĩ, sau 1954, về Hà Nội làm Hiệu phó trường nhạc trung cấp).
Anh quê ở Bắc Giang. Trong thời gian kháng chiến, các văn nghệ sĩ đi công tác
qua, thường ghé vào nhà anh ngủ nhờ. Một lần, Xuân Diệu và Trần Văn Cẩn vào ngủ
nhờ. Nửa đêm, anh thấy Cẩn đùng đùng dậy chửi mắng Xuân Diệu thậm tệ.
Anh Xuân Tửu một lần
cùng Xuân Diệu ở trong một đoàn văn nghệ sĩ đi thăm đảo Cô Tô. Chiều hôm trước
họ nghỉ lại ở Móng Cái để hôm sau đáp tàu ra đảo. Xuân Tửu muốn tắm truồng nên
một mình lang thang ra biển tìm chỗ vắng người. Nhưng rất phiền là cứ thấy Xuân
Diệu lẽo đẽo đi đằng sau. Đi một chập, Xuân Diệu biết ý Xuân Tửu, nói: “muốn
tắm truồng phải không? Thì cùng tắm”. Xuân Tửu mừng quá không phải vì được tắm,
mà vì nhân dịp này, biết đích xác Xuân Diệu có ái nam ái nữ hay không. Anh
giương mục kỉnh để nhìn cho rõ – Té ra rất đẹp! – Xuân Tửu nói với tôi như vậy.
Sau khi Bạch Diệp bỏ Xuân Diệu, anh Huỳnh Lý có một lần cùng ăn với Xuân Diệu ở
khách sạn Phú Gia. Huỳnh Lý gạ chuyện: “Mình có học với cậu từ nhỏ (cấp II Quy
Nhơn), mình biết chứ. Người ta cứ nói cậu ái nam ái nữ, nhưng có phải đâu (trẻ
con thằng nào ái nam ái nữ, nó vật ra khám ngay, dấu sao được)
Xuân Diệu im lặng một
lúc rồi nói: “Cái con Bạch Diệp trắng trợn! Để rồi mình uống thuốc, sẽ khá lên
dần. Nó bỏ luôn”.
Người làm mối Bạch Diệp
cho Xuân Diệu là Nguyễn Đình Thi và Hằng Phương. Hôm cùng đi vào Đà Nẵng,
Nguyễn Đình Thi nói với tôi: “Tôi cứ bị cô Bạch Diệp chửi mãi”
Thực ra, chuyện Xuân
Diệu có vấn đề về sinh lý, Bạch Diệp cũng có ngờ ngợ trước khi nhận lấy Xuân
Diệu- Chị cẩn thận đi hỏi Tô Hoài là bí thư Đảng đoàn văn nghệ – Tô Hoài nói
không biết và mách đi hỏi Huy Cận. Huy Cận nói không có chuyện gì. Nhưng Bạch
Diệp vẫn cảnh giác: Cưới rất to nhưng không đăng kí kết hôn. Thành ra khi biết
chuyện, bỏ luôn, không phải ra toà lôi thôi.
Khi Xuân Diệu mất, Bạch
Diệp viếng một vòng hoa trắng. Hôm giỗ đầu Xuân Diệu (tháng 12 – 1986), người
ta tổ chức một cuộc hội thảo khoa học lớn ở Câu lạc bộ lao động. Tôi được mời
đọc báo cáo. Tôi đọc bài: “Tư tưởng và phong cách một nhà thơ lớn: Xuân Diệu”.
ở bài này, lần đầu tiên tôi đưa ra mấy ý được hoan nghênh: tư tưởng nghệ thuật
(idée poétique) của Xuân Diệu là niềm khát khao giao cảm hết mình với cuộc đời
trần tục, trần thế này; Xuân Diệu là người đầu tiên đưa vào thơ ca Việt Nam,
tình yêu thật sự là tình yêu, nghĩa là sự giao cảm tuyệt đối từ nhục thể đến
tâm hồn (khác với thơ tình của Huy Cận, chỉ là tình yêu platonique); một cách
tân quan trọng của Xuân Diệu về thi pháp: coi con người giữa tuổi trẻ và tình
yêu là chuẩn mực của cái đẹp.
Chị Xuân Như, em Xuân
Diệu, có mặt hôm ấy, đến gặp tôi, nói: “Anh viết rất đúng về anh tôi”. Rất
tiếc, giá mà Xuân Diệu đọc được!
(Xem tiếp phần 3)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét