Thơ của Hesse, sâu sắc về
nội tâm và triết học, phản ánh ảnh hưởng của Chủ nghĩa lãng mạn và Chủ nghĩa tượng
trưng. Thơ của ông thường sử dụng hình ảnh thiên nhiên và khám phá các chủ đề về
nội tâm, khao khát và tình trạng con người. Giống như văn xuôi của mình, thơ của
Hesse vật lộn với những câu hỏi về bản sắc và tìm kiếm ý nghĩa trong một thế giới
thường được coi là hỗn loạn hoặc vỡ mộng. Những độc giả bị thu hút bởi những phẩm
chất chiêm nghiệm và cộng hưởng cảm xúc trong văn xuôi của Hesse sẽ tìm thấy
chiều sâu và sự cộng hưởng tương tự trong thơ của ông.
Những độc giả quan tâm đến
tác phẩm của Hesse cũng có thể tìm thấy sự tương đồng trong các tác phẩm của những
tác giả như Rainer Maria Rilke , Friedrich Nietzsche và CarlJung .
Những nhân vật này, có ảnh hưởng trong bối cảnh trí tuệ và nghệ thuật thời
Hesse, chia sẻ những mối quan tâm tương tự với các câu hỏi hiện sinh, việc khám
phá tiềm thức và vai trò của tâm linh trong cuộc sống hiện đại. Cũng giống như
các tác phẩm của Hesse vẫn có liên quan đến những độc giả đương đại đang vật lộn
với các câu hỏi về bản sắc và mục đích, những tác giả này tiếp tục cung cấp những
hiểu biết sâu sắc về tình trạng của con người.
NHỮNG CHẶNG ĐƯỜNG - Hermann Hesse
Khi mọi bông hoa tàn
và khi thanh xuân ra đi,
cuộc sống ở từng giai đoạn.
Vì vậy, mọi đức hạnh, nắm bắt của chúng ta về chân lý,
nở rộ vào ngày của nó và có thể không tồn lưu mãi.
Vì cuộc sống có thể triệu tập chúng ta ở mọi chặng đường
hãy sẵn sàng, trái tim, cho sự chia tay, nỗ lực mới,
hãy sẵn sàng một cách dũng cảm và không hối hận
để tìm thấy ánh sáng mới
mà những giềng mối cũ không thể mang lại.
Mọi sự khởi đầu đều có sức mạnh kỳ diệu
để bảo vệ chúng ta và giúp chúng ta sống
hãy để chúng ta thong dong đi đến những nơi xa xôi
và không để tình cảm gia đình kìm hãm chúng ta.
Linh hồn vũ trụ không tìm cách kìm hãm chúng ta
mà từng bước nâng chúng ta đến những không gian rộng lớn hơn.
Nếu chúng ta chấp nhận một ngôi nhà do chính mình tạo ra,
thói quen tạo nên sự lười biếng.
Chúng ta phải chuẩn bị cho sự chia tay
hoặc giữ lại sự nô lệ vĩnh cửu.
Ngay cả giờ phút lâm chung cũng có thể đưa chúng ta
nhanh chóng đến những không gian mới mẻ và tươi đẹp hơn,
Và cuộc sống có thể triệu tập chúng ta đến những chủng tộc mới
hơn.
Thôi thì, trái tim ơi: tạm biệt không hồi kết.
----------
(1). Nguyên tác Anh ngữ -Tại đây
(2). Hermann Hesse được coi là một nhân vật quan trọng trong nền văn học thế kỷ 20 , với việc khám phá các chủ đề như cá tính, tâm linh và tìm kiếm sự tự hiểu biết vẫn tiếp tục gây được tiếng vang với độc giả ngày nay. Các tác phẩm của ông thường đi sâu vào đời sống nội tâm của các nhân vật, vật lộn với kỳ vọng của xã hội, sự xa lánh cá nhân và khao khát tồn tại đích thực.
Hermann Hesse (sinh 1877
ở Đức - mất 1962 ở Thụy Sĩ) là một nhà thơ, nhà văn và họa sĩ người Đức. Năm
1946 ông được tặng Giải Goethe và Giải Nobel Văn học.
Ông xuất thân từ một gia
đình truyền giáo Kitô giáo. Sau khi học xong trường tiếng Latin ở Göppingen (Đức),
năm 1891 ông vào Trường thần học Tin lành ở Maulbronn (Đức). Ở đây cá tính chống
đối của ông đã thể hiện: trốn khỏi trường, xung đột với cha mẹ và phiêu lưu qua
nhiều học viện, trường học nhưng bỏ học và chuyển trường liên tục, dần dần ông
trở nên trầm cảm, có ý định tự tử. Sau một thời gian làm các nghề lao động phổ
thông, ông bắt đầu tỉnh trí và quay lại học tập và làm việc nghiêm túc.
Hermann Hesse có thời kỳ
làm việc tại một tiệm bán sách - chủ yếu bán các sách về thần học, triết học và
luật. Đây là thời gian ông tiếp xúc với các tác phẩm của Goethe, Lessing,
Schiller và thần thoại Hy Lạp. Và ông bắt
đầu viết thơ, được in trong một số tạp chí và đăng báo. Năm 1898, Hesse đã xuất
bản tập thơ đầu tiên của mình, “Romantische Lieder” (Các bài hát lãng mạn), và
trong mùa hè 1899 tập văn xuôi “Eine Stunde hinter Mitternacht” (Một giờ sau nửa
đêm). Cả hai tác phẩm đều thất bại về mặt kinh doanh nhưng các nhà xuất bản vẫn
tin tưởng vào chất lượng văn học của các tác phẩm này và khuyến khích tác giả
trẻ.
Việc bán sách về sau đã
cho ông cơ hội tiếp xúc với giới tri thức nghệ thuật và họ đã mở cửa đón chào ông nên ông ngày càng có nhiều cơ hội
để đăng các bài thơ và văn trên các tạp chí. Chẳng bao lâu nhà xuất bản Samuel
Fischer đã chú ý đến ông và in quyển tiểu thuyết Peter Camenzind của ông (1903).
Từ đây, Hesse trở thành một nhà văn tự do, có thu nhập từ bán sách và nhận nhuận
bút thường xuyên.
Vinh quang về văn chương
tạo điều kiện cho Hesse có một gia đình ổn định và tiếp tục viết. Nhưng rồi Hesse
rơi và một cơn khủng hoảng sáng tạo cùng với bất hòa hôn nhân. Khi Chiến tranh
thế giới thứ nhất bùng nổ Hesse đăng ký tình nguyện đi lính nhưng do có vấn đề
về sức khoẻ nên ông được cử làm nhiệm vụ chăm sóc tù binh. Những bài báo phản
chiến khiến ông bị giới báo chí Đức tấn công, hăm dọa, bạn bè từ chối… dù ông
nhận được sự đồng tình của các nhà văn lớn Châu Âu như Theodor Heuss, Romain
Rolland, Carl Gustav Jung…
Khi rời cuộc chiến, ông
bắt đầu vẽ song song với viết. Các tác phẩm lớn kế tiếp của ông ra đời trong thời
gian này như: Kurgast (Khách dưỡng bệnh – 1925), Die Nürnberger Reise (Chuyến
đi Nürnberg – 1927, Der Steppenwolf (Sói đồng hoang – 1927), Die
Morgenlandfahrt (Hành trình về phương Đông - 1932). Ông viết báo kêu gọi ủng hộ
các tác giả người Do Thái và các tác giả khác đang bị người của Đảng quốc xã
theo dõi và từ đó, và từ đó không một báo Đức nào dám đăng bài của ông nữa.
Hesse trốn tránh các xung đột chính trị khi WW2 nổ ra và viết quyển tiểu thuyết
Das Glasperlenspiel (in ở Thụy Sĩ năm 1943). Tác phẩm này cùng với sự nghiệp
văn học đã đưa ông đến nhận Giải Nobel văn chương năm 1946 và Giải thưởng
Goethe, Giải thưởng Wilhelm Raabe, Giải
thưởng Hòa bình. Sau WW2, sức sáng tạo của ông giảm sút, ông chỉ viết truyện kể
và thơ nhưng không còn viết tiểu thuyết nữa. Hermann Hesse mất ngày 9 tháng 8
năm 1962.
***
Các tác phẩm thơ của ông
đều thuộc về trường phái lãng mạn nhưng sau này Hesse từ bỏ quan điểm lãng mạn
mới này. Sự quen biết với học thuyết về nguyên mẫu (archetype) của nhà tâm lý học
Carl Gustav Jung đã có ảnh hưởng quyết định đến các tiểu thuyết của Hesse. Một
khía cạnh quan trọng khác trong các tác phẩm của Hesse là sự duy linh
(spirituality), rõ nhất trong quyển tiểu thuyết Siddharta. Các đạo giáo Ấn Độ,
đạo Lão và thuyết thần bí của Thiên chúa giáo là nền tảng của việc này. Một số
nhà phê bình chỉ trích Hesse là ông đã sử dụng văn chương để diễn đạt thế giới
quan của mình. Người ta cũng có thể đảo ngược phê bình này để nói là các nhà
phê bình chỉ phản đối thế giới quan của Hesse chứ không chỉ trích văn chương của
ông.
Tất cả các tác phẩm của Hesse đều chứa đựng một phần tính tự truyện, đặc biệt có thể thấy rõ trong Steppenwolf, quyển tiểu thuyết có thể được lấy làm thí dụ cho một "tiểu thuyết về một cơn khủng hoảng trong cuộc sống".
Ở Đức, các tác phẩm của Hesse thuộc vào dạng sách cấm, và chỉ được biết đến rộng rãi sau năm 1945. Để tưởng niệm Hesse, hai giải thưởng văn chương được đặt theo tên ông: Giải thưởng Hermann Hesse và Giải thưởng văn học Hermann Hesse. (Tham khảo)
(3). Bài thơ này khám phá chủ đề về sự vô thường và chu kỳ liên tục của các giai đoạn cuộc sống. Nó phản ánh triết lý của Hesse về việc đón nhận sự thay đổi và chấp nhận sự mất mát không thể tránh khỏi. Bài thơ cũng phù hợp với các chủ đề hiện sinh thịnh hành trong thời kỳ đó, nhấn mạnh tầm quan trọng của sự phát triển cá nhân và việc tìm kiếm ý nghĩa trước bản chất phù du của cuộc sống. Ngôn ngữ đơn giản và cấu trúc nhịp điệu của bài thơ truyền tải cảm giác chấp nhận và phục hồi, khuyến khích người đọc đón nhận điều chưa biết và tìm kiếm cơ hội trong những lời tạm biệt.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét