9/5/25

3.509. NGUYỄN TUÂN (4)

    Trích Chương XIII – Hồi ký Nguyễn Đăng Mạnh



Nguyễn Tuân rất vui tính. Bốc lên cũng hò cũng hát rất nhộn. Theo Tô Hoài, những lúc ấy ông thường hò chèo đò hoặc hát đường trường. Ông cũng hay diễn trò nhại giọng điệu người này người khác để giễu cợt. Xong, cười thích thú. Ông nhại giọng Huế rất đạt và có duyên.

Lúc ấy, tôi chợt nhớ ra Nguyễn Tuân vốn là một diễn viên kịch nói có tài từng đóng vai chính trong các vở Kim tiền của Vi Huyền Đắc và Ngã ba của Đoàn Phú Tứ. Và đã từng được tuyển vào đoàn tài tử đi sang Hồng Kông đóng phim Cánh đồng ma.

Nguyễn Tuân rất thích truyện tiếu lâm, tiếu lâm ta, tiếu lâm Tây. Tôi nhớ có một hồi, ở trong nhân dân ta, phát triển rất mạnh một loại truyện vui gọi là tiếu lâm hiện đại nhằm giễu cợt những sự việc, những nhân vật đương thời. Nguyễn Tuân có vẻ rất thích những truyện ấy. Có lần ông kể tôi nghe một truyện về Phạm Tuân: “Cái hôm người ta phóng con tầu đưa Phạm Tuân lên vũ trụ, Võ Nguyên Giáp, Hoàng Quốc Việt có tới dự. Một điều lạ là khi nhiên liệu đã nổ rầm rầm mà con tầu không thấy bay lên. Các công trình sư Liên Xô chạy đôn chạy đáo kiểm tra kỹ thuật mọi mặt đều chẳng có gì trục trặc cả. Võ Nguyễn Giáp ngẫm nghĩ một lát rồi đề nghị cho mình đến gặp Phạm Tuân. Tuy biết Võ Nguyên Giáp không hiểu gì về kỹ thuật, nhưng vì nể một vị đại tướng lại là uỷ viên Bộ Chính trị Việt Nam nên họ đồng ý. ..Võ Nguyên Giáp vào gặp Phạm Tuân một lát , vừa quay ra thì con tầu đã vọt thẳng lên trời. Các vị có mặt hôm ấy hỏi tướng Giáp đã làm thế nào. Giáp không nói, chỉ tủm tỉm cười.

Khi về nước, Lê Duẩn lập tức triệu ngay Giáp đến để hỏi. Giáp vẫn không chịu nói. Duẩn nghiêm mặt: “Anh giữ bí mật quốc gia là đúng. Nhưng tôi là tổng bí thư mà anh cũng giữ bí mật sao? Võ Nguyên Giáp đành phải nói thật: “Có gì đâu, tôi thọc tay ngay vào túi quần nó. Quả nhiên thấy có mấy cái đinh ốc nó vừa xoáy ở con tàu. Tôi quát: “Muốn sống lắp trở lại ngay!” Thế là con tàu bay vọt lên trời”.

Ông còn kể tôi nghe một truyện nữa – một truyện tiếu lâm Tây. Đó là lần cuối cùng tôi gặp Nguyễn Tuân. Buổi sáng hôm ấy, như mọi ngày, ông có thói quen đi dạo quanh phố xá mấy vòng rồi tạt vào Hội Nhà văn một lúc. Lúc đó tôi nhớ đang có mặt Nguyễn Khải, Bùi Bình Thi, Xuân Quỳnh, Hà Minh Đức và tôi. Ông đến sau, thấy tôi, ông nói, đã lâu lắm không gặp. Chính hôm ấy ông lại nhắc lại với tôi một cách thích thú cái tâm sự rất riêng của Đặng Thai Mai đã nói trên kia. Rồi ông kể tôi nghe một truyện tiếu lâm của Pháp: “Có một lão giám mục kia, vào lúc hấp hối, phát biểu một nguyện vọng cuối cùng là muốn được xem “cái ấy” của đàn bà ngoại đạo nó như thế nào. Người ta thông cảm, đáp ứng yêu cầu của ông. Xem xong, ông ta nói: “Tưởng thế nào, hoá ra cũng chẳng khác gì của các nữ tu sĩ”.

Nói dứt câu, Nguyễn Tuân cười khoái chí.

Nghe nói ở kỳ Đại hội văn hoá toàn quốc tại Việt Bắc năm 1948, Nguyễn Tuân, ngay trên diễn đàn, dám kể chuyện “cái rắm thơm, cái rắm thôi”. Hồi ấy sinh hoạt văn nghệ còn thoải mái lắm mới có thể có chuyện tếu như thế được. Từ năm 1951 trở đi, đừng hòng được như vậy: Đảng ra công khai, biên giới phía Bắc thông với phe xã hội chủ nghĩa, sự đổ bộ của tư tưởng Xtaline và Mao Trạch Đông, chỉnh huấn về lập trường giai cấp chuẩn bị cải cách ruộng đất… Rồi yêu cầu của chiến tranh giải phóng dân tộc phải tập trung cổ vũ chiến đấu: Ta là chính nghĩa, là anh hùng, không được giễu cợt! Tiếng cười hầu như mất hẳn trong đời sống văn học.

Tôi cho rằng, ở Nguyễn Tuân, luôn tiềm tàng một cái gọi là chất trẻ trung tinh nghịch, thể hiện ở người và ở văn.

Trong cuốn 40 năm nói láo, Vũ Bằng tỏ ra biết khá nhiều về cá tính độc đáo của Nguyễn Tuân. Đọc tập hồi ký này, thấy Nguyễn Tuân bày ra lắm trò tinh nghịch rất oái oăm, kỳ quái. Chẳng hạn, ngủ lại xóm hát, bỗng dưng leo lên mái nhà ả đào chơi. Rồi bắt ả đào giả vờ chết để diễn trò khóc lóc ầm ĩ khiến hàng xóm láng giềng tưởng thật chạy sang chia buồn… Cụ Nguyễn Lương Ngọc còn kể tôi nghe chuyện này về Nguyễn Tuân: đang ngồi ở nhà ả đào, tự nhiên phóng tay đấm mạnh vào cửa kính cho vỡ toang ra. Chả để làm gì cả. Y như người dư thừa sinh lực vậy. Hay là đang nửa đêm, dạy cặm cụi đánh giầy cho tất cả quan viên… Nguyễn Tuân hay có những ý nghĩ nghịch ngợm: chẳng hạn, tuyên bố, khi chết, muốn người ta đốt xuống cho mình vài hình nhân nhà phê bình. ở dưới ấy rỗi rãi, trò chuyện với mấy tay phê bình chắc cũng vui. Hoặc đến các vị trong Ban chấp hành Hội nhà văn, đề nghị cho biết khi mình chết thì sẽ thuê mấy ô tô đi đưa. Hỏi thế để bây giờ xin trước vài cái đi uống rượu, sau này xin cứ trừ đi… Trong văn cũng thế. Như trongMột chuyến đi chẳng hạn, ông nẩy ra ý nghĩ đem giam chung với nhau mấy thằng nghiện thuốc lá nặng, rồi theo dõi xem chúng ứng xử với nhau như thế nào khi cạn bao thuốc. Còn trong Sông Đà thì lại tưởng tượng ra cái cảnh ở một bến nước kia, đàn ông, đàn bà đang tắm táp, tự nhiên nước sông đột ngột rút sạch, mọi người thấy mình bỗng tênh hênh tô hô cả ra (chi tiết này trong những lần in lại, không thấy nữa)…

Các vị Vũ Đức Phúc, Nam Mộc, Như Phong, Phan Cự Đệ… chắc cho thế là nhảm nhí, là vớ vẩn. Tôi thì cho đấy chính là cái chất trẻ trung hồn nhiên rất có duyên của Nguyễn Tuân.

Nguyễn Khải nhiều lần nói, Nguyễn Tuân là người sướng nhất: ngông nghênh, khinh bạc, chẳng trọng ai, chỉ trọng mình, vậy mà đi đâu cũng được chiều chuộng, đón rước, nể trọng. Lại có người tự nguyện điếu đóm, phục vụ tận tình.

Nguyên Ngọc có lần cùng sang Liên Xô với Nguyễn Tuân. Họ ở Lêningrát vào đúng dịp tuyết đầu mùa. Người ta biết Nguyễn Tuân rất thích xem tuyết rơi, nên dành cho ông một căn phòng rất thuận tiện để ngắm tuyết (về nước, ông có viết một bài đăng trên Văn nghệ gọi là Lêningrat, tuyết đầu mùa). Năm sau Nguyễn Tuân lại sang Liên Xô. Đến Mạc Tư Khoa đúng vào dịp tuyết đầu mùa. Người ta lại đưa ông về đúng cái căn phòng năm trước ở Lêningrát để xem tuyết rơi. Theo Nguyên Ngọc, ở Liên Xô, Nguyễn Tuân được coi như một thượng khách. Lại có một anh tên là Marian, chuyên dịch Nguyễn Tuân sang tiếng Nga. Trong nhà mình, Marian chỉ treo độc một bức chân dung Nguyễn Tuân.

Nguyễn Khải kể với tôi chuyện này: Sau 1975, có lần Nguyễn Tuân vào Sài Gòn. Ông bị khớp nặng, nằm liệt trên lầu. Trịnh Công Sơn ngày nào cũng tự nguyện lo chuyện ăn uống theo khẩu vị Nguyễn Tuân: nấu cơm niêu đất ăn với cá bống kho tiêu là món Nguyễn Tuân thích.

Ở tầng dưới thì Nguyễn Khải và Nguyễn Thành Long đóng vai tiếp khách cho Nguyễn Tuân. Ai đến thăm thì lên báo cáo xem ông có tiếp không. Nhiều người ông không tiếp, phải để quà đấy đi về. Có một lần Marian lúc ấy đang ở Sài Gòn, đến thăm. Nguyễn Khải và Nguyễn Thành Long nghĩ là trường hợp này không phải báo cáo, cứ cho lên luôn. Marian hôm ấy lại dắt theo một tay Liên Xô nữa. Nguyễn Khải cứ thấy ông mắng Marian xơi xơi: “Sao mày lại đưa thằng ấy lên!”. Khải nói: “Lần đầu thấy một thằng “tiểu quốc” mắng một thằng “đại quốc”, nghĩ cũng mát ruột”.

Nguyễn Minh Châu cũng cho Nguyễn Tuân là sướng. Sau 1975, Hội An có tổ chức một cuộc kỷ niệm gì đó, mời Nguyễn Tuân vào viết cho một bài. Lúc ấy Nguyễn Khải và Nguyễn Minh Châu đang ở Đà Nẵng, muốn có xe vào Hội An chơi, bèn bịa chuyện cần một ôtô vào trước để sửa soạn đón Nguyễn Tuân hôm sau vào. Thế là được cấp luôn một chuyến xe. Thực ra bịa thế thôi chứ có sửa soạn gì đâu! Nguyễn Tuân vào đã có xe riêng, một mình một xe. Hồi ấy chuyện xe cộ không sẵn như bây giờ.

Nghe nói, ngày xưa, Nguyễn Tuân chơi cô đầu cũng rất sang. Thường bồ bịch với đào hát nổi tiếng hoặc bà chủ nhà hát. Không phải bao gái mà lại được gái bao. Hồi kháng chiến chống Pháp, ở chiến khu Việt Bắc, ông được cô đào hát nhân tình nào đó gửi vàng từ Hà Nội ra cho ông tiêu. Riêng tôi được chứng kiến một chuyện cũng lạ.

Ấy là ngày làm lễ bế giảng trường Nguyễn Du khoá một long trọng lắm. Quan khách đến dự rất đông. Có đủ bộ trưởng, thứ trưởng, trung ương uỷ viên và các nhà văn có tên tuổi ở Hà Nội. Anh điều khiển buổi lễ, giới thiệu lần lượt các đại biểu. Giới thiệu ai thì người ta cũng chỉ ngồi vỗ tay tại chỗ thôi. Nguyễn Tuân đến muộn. Không hiểu sao, cả hội trường không ai bảo ai, cùng đứng dậy vỗ tay dài.

Vì thiên hạ vốn trọng người tài chăng? Nguyễn Tuân đúng là một cái tài. Nhưng người tài đâu chỉ có Nguyễn Tuân? Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Nguyễn Đình Thi… không tài à?

Tôi cho Nguyễn Tuân được trọng vì vừa có tài vừa có nhân cách. Nhưng giữ được nhân cách đâu có dễ. Cái nghèo, cái đói, cái sợ (sợ cấp trên) khiến người ta khó giữ được nhân cách, tuy biết thế là hèn. Vì thế người có nhân cách càng hiếm, càng quý. Cho nên có một người như Nguyễn Tuân là rất sang cho giới nhà văn.

Trong nhiều tác phẩm của mình, nhất là trong Chiếc lư đồng mắt cua, Nguyễn Tuân thường vẽ mình như một kẻ bê tha, trác táng, bẩn thỉu, nhếch nhác, rượu chè be bét, suốt ngày chui rúc vào cái màn hôi hám của ông Thông Phu, một con nghiện bị bệnh bại liệt bán thân bất toại. Uống rượu thì say đến mức úp mặt vào mâm bát mà gào, mà hò hét như thằng điên… Thực ra trong đời thực, ông có phải như thế đâu. Hồi ở Việt Bắc bà Trần Minh Tước cùng làm việc với tôi ở Sở Giáo dục Liên khu Việt Bắc vốn quen thân với Nguyễn Tuân, nói với tôi: “Ông ấy đến cái maillot, cái quần lót cũng giặt là cẩn thận”.

Còn uống rượu thì không bao giờ quá chén. Tô Hoài gọi là uống rượu ngữ, nghĩa là có chừng mực chứ không say bét như Hoàng Trung Thông…Ông Hoài Thanh chê Nguyễn Tuân có lắm lệch lạc về tư tưởng, từng bị cánh nhân văn lợi dụng, nhưng ông vẫn thấy Nguyễn Tuân không bê tha truỵ lạc như nhiều tay trong nhóm Nhân văn, nghĩa là Hoài Thanh cũng rất nể Nguyễn Tuân về nhân cách.

Tôi lại nghe nói, sau 1975, một số nhà xuất bản ở Sài Gòn tự nguyện trả tiền nhuận bút cho những nhà văn “tiền chiến” sống ở miền Bắc, mà trước 1975, họ có in lại sách này sách khác để bán. Các vị đều nhận cả, riêng Nguyễn Tuân từ chối.

***

Trở lại câu chuyện Nguyễn Tuân và Nguyên Ngọc ở Liên Xô. Trong thời gian Nguyễn Tuân ở Liên Xô, người ta cử một cô gái Nga làm phiên dịch cho ông. Cô gái rất đẹp – đẹp như tượng – Nguyên Ngọc nói thế (Chắc là đẹp như tượng thần Vệ nữ ở Milô chăng?). Nguyễn Tuân nhờ cô gái mua cho mình mười bông hồng tươi. ở Nga, giữa mùa rét, hoa hồng rất đắt: 12 rúp (trong khi một cái bàn là điện hay một cái áo bay có 7 rúp). Hỏi mua để làm gì, ông không nói. Mua về, ông tặng luôn cho cô gái phục vụ mình. Cô gái Nga lấy làm lạ, vì cô biết Việt Nam còn nghèo lắm, lại đang có chiến tranh, sao ông nhà văn này lại chơi sang thế, không dành tiền mua quà cáp gì về nhà. Cô ta áy náy, bèn tự mình đi mua một ít hàng rồi gói ghém, bắt Nguyễn Tuân mang về. Cô hỏi, các nhà văn nước ông có như thế cả không? Nguyễn Tuân nói, tôi chỉ là một nhà văn xoàng ở Việt Nam thôi. Ông nói thế, chắc là để làm sang cho giới văn nghệ Việt Nam vốn rất nhếch nhác mỗi khi ra nước ngoài.

Hoạ sĩ Đào Đức còn kể chuyện này: Một lần Nguyễn Tuân cùng Kim Lân sang Liên Xô. Mấy ngày đầu người ta chưa cấp tiền. Nhà văn Simônốp ngỏ ý biếu mỗi người 50 rúp tiêu tạm. Nguyễn Tuân từ chối, Kim Lân chả lẽ lại nhận, nhưng tiếc quá, nói với Đào Đức: mình cảm thấy cứ y như là bị móc ví mất 50 rúp.

Mọi người đều biết, Nguyễn Tuân là người ham chơi, ham “xê dịch”. Nhưng không vì thế mà vất bỏ nhân cách. Vào lúc đã cao tuổi, ông có được mời sang Pháp, nhưng ông từ chối. Ông nói với tôi: “Già rồi sang đấy mà chết ở đấy thì nhục quá!”.

Đấy, Nguyễn Tuân sở dĩ được trọng là vì thế. Mình không giữ được nhân cách thì ông ấy giữ hộ, đại diện giới nhà văn giữ hộ.

Nguyễn Tuân nổi tiếng là ngông. Đúng thế. Nhưng chơi ngông không dễ đâu. Không có tài, không có đức, chơi ngông làm sao được! Ngông có cả một cơ sở đạo lý của nó đấy. Cho nên những bậc chơi ngông xưa nay đều là những tấm gương đạo đức cả – Tản Đà gọi là “thiên lương”: “Hai chữ thiên lương thằng Hiếu nhớ”

Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Khuyến, Tú Xương, Tản Đà, Nguyễn Tuân đều thế cả. Sau Nguyễn Tuân, hình như trong giới văn học, không còn ai dám chơi ngông nữa thì phải.

Ở Nguyễn Tuân tôi thấy có một cái gì rất cổ điển, không phải chỉ trong văn đâu mà trong lối sống, tác phong sống. Ông không chỉ viết văn cho hay, cho đẹp mà còn muốn sống đẹp nữa.

Chất cổ điển chính là ở chỗ đó. Các cây bút hiện đại chỉ lo sản xuất văn chương cho nhiều, cho tốt, còn sống thế nào cũng được, cốt sao cho khoẻ, cho sướng. Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Tô Hoài, Nguyễn Đình Thi… là như thế.

Người xưa tư duy nguyên hợp (syncrétique), óc phân tích chưa phát triển nên thường không phân biệt thực và hư, chân và ảo, con người và thiên nhiên, cuộc sống và nghệ thuật. Cho nên người quân tử nói năng cũng có văn vẻ, ăn uống cũng có phép tắc, chào hỏi cũng có điệu bộ, ngôn ngữ tình yêu cũng kiểu cách, khóc than cũng lên bổng xuống trầm (văn tế), thậm chí đánh nhau mà như vũ đạo… Cho nên Trần Hưng Đạo truyền hịch mà thành văn chương, Nguyễn Trãi viết cáo mà hình tượng tầng tầng lớp lớp… Từ đó, không phân biệt sự sống và nghệ thuật, cuộc đời hay sân khấu…

Nguyễn Tuân là một trí thức Tây học, một cây bút hiện đại. Những tác giả phương Tây mà ông chịu ảnh hưởng sâu sắc là những nhà văn vào loại hiện đại nhất như Marcel Proust, André Gide… Tuy nhiên ở ông vẫn có một cái gì giống như Nguyễn Công Trứ, Tú Xương, Tản Đà… Không phải chỉ làm nghệ  thuật mà trước hết sống cho đẹp, cho nghệ thuật. Và về nhân cách vẫn phảng phất cái cốt cách trượng phu quân tử.

Nguyễn Tuân là cây bút có phong cách nghệ thuật rất sâu. Nhưng trong cung cách sống nhiều khi ông cũng cố tình tạo cho mình một phong dạng (manière) riêng khá kiểu cách: từ cách để ria mép, cách cầm cái can, ngậm cái píp, cách đi đứng… không phải ông không có ý tạo dáng cho đẹp. Ông sành sỏi hát ả đào, đấy cũng là một cái thú chơi cổ điển. Trước cách mạng tháng Tám, hồi còn ở Thanh Hoá, ông mở một hiệu sách đặt tên là Thư Trang, về Hà Nội, làm cái nhà ở Cống Mọc, ông gọi là Am Sông Tô…nghĩa là cũng thích văn vẻ. Ngay sau cách mạng tháng Tám, đến dự Hội nghị Văn hoá cứu quốc giữa Hà Nội, ông vẫn mặc áo gấm, đội khăn xếp… tôi cho cũng là một cách “diễn” đấy thôi – diễn trò ngông nghênh nghệ sĩ trước bàn dân thiên hạ… Một con người như thế, tất không thích ai đến thăm khi ốm đau. Ông có bệnh thấp khớp mãn tính nặng, mỗi lần phát bệnh, chân tay sưng tấy, co quắp, phải vệ sinh tại chỗ, trông chẳng “mĩ thuật”, chẳng “nghệ sĩ” tí nào. Một lần tôi đến ông, đúng lúc ông ốm. Ông đang ngồi ở mép phản, thõng chân xuống. Có một người nữa quay lưng lại hình như một người nhà đang làm gì để giúp ông. ông nheo mắt nhìn tôi từ xa, lúc đầu ngờ ngợ, sau nhận ra, ông có vẻ bối rối, luống cuống:

- Sao, có việc gì thế?

- Không có gì. Đến thăm bác thôi.

- Thế thì cám ơn, cám ơn. Thôi để lúc khác nhé.

Sợ tôi chưa hiểu, ông chỉ xuống cái bô ở gậm phản…

Tôi ngượng quá, vội bỏ ra.

Một lần khác, tôi đến thăm ông cũng đúng vào lúc ông ốm. Nhưng lần này cửa đóng. Ngoài cửa tôi thấy có dán một tờ giấy lớn ghi mấy dòng chữ: “Bệnh nhân Nguyễn Tuân không tiếp khách, bao giờ khỏi sẽ xin đến tạ. Ai đến, xin gọi và xướng tên hai lần. Không có tiếng trả lời thì xin vui lòng lui cho. Cám ơn”.

Đến thăm mà phải xướng tên, ai còn đến làm gì!

Như đã nói, tôi gặp Nguyễn Tuân lần cuối cùng vào buổi sáng ngày thứ bẩy 25 – 7 – 1987 ở trụ sở Hội nhà văn, 65 Nguyễn Du. Trông ông rất đẹp lão. Nguyễn Khải nhận xét và nói một câu rất gở: “Đẹp lão thế là sắp sửa đấy!” Nguyễn Tuân nói, ông không sợ chết, chỉ sợ ốm kéo dài thôi. Hôm ấy, ông nói rất nhiều chuyện vui. Tôi đã từng nghe câu nói của ông về các nhà phê bình: khi chết đi, muốn người ta đốt xuống cho mình vài anh phê bình… Hôm ấy ông lại cho ra thêm một câu nữa: “Vừa rồi có mấy anh nhà văn nước ngoài đến hỏi tôi: “Ông thường có thói quen viết vào lúc nào?”. Tôi nói, thường vào ban đêm. Họ hỏi lý do. Tôi nói: “Vì lúc ấy các nhà phê bình họ đi ngủ cả rồi!”.

Tôi thấy ông cầm trên tay một điếu thuốc lá nhưng không hút, lại còn xin thêm Nguyễn Khải điếu nữa. Ông nói: bác sĩ nói phải hạn chế hút. Mỗi ngày một điếu thôi, tránh hít sâu vào. Còn rượu thì cấm hẳn. Và phải tránh có xúc động mạnh. Rồi ông cười: “Làm nghề viết văn mà phải tránh xúc động thì còn viết gì được nữa!”.

Ấy thế mà đúng 3 ngày sau ông qua đời.

Bửu Chỉ ở Huế ra Hà Nội. Chị Ngọc Trai tổ chức một bữa nhậu. Nguyễn Tuân uống rượu. Hôm sau vào bệnh viện và tịch luôn. Anh Đình Quang nói, lẽ ra ông chưa chết. Ông tự tử đấy. Ông nằm cùng với một bệnh nhân nào đó. Ông khó ngủ, dậy bật đèn lên. Ông kia tắt đi.

Người bật lên, người tắt đi, cứ thế mấy lần. Bực quá, ông uống một liều thuốc gì đó và đi luôn.

Chuyện chả biết có thật thế không. Nhưng anh Nguyễn Xuân Đào, con trai Nguyễn Tuân lại bảo không phải. Ông chết là vì đêm ấy ông uống đến nửa chai rượu. Thế thì có trời cứu!.

Nhưng như thế thì cũng là một cách tự sát chứ sao! Vì chính ông đã biết phải kiêng rượu kia mà! Thuốc lá còn được hút mỗi ngày một điếu. Còn rượu thì cấm hẳn.

Như vậy thì điều anh Đình Quang nói không hẳn đã sai. Chung quanh những người nổi tiếng và độc đáo, thiên hạ thường thêu dệt ra lắm giai thoại. Chung quanh Nguyễn Tuân xưa nay cũng lắm giai thoại. Thí dụ, nhiều người, tôi cũng thế, nghe nói và tin ở câu chuyện này: Võ Hồng Cương, bí thư đảng đoàn Bộ Văn hoá đến thăm Nguyễn Tuân. Đứng dưới sân, Cương gọi vọng lên lầu (Nguyễn Tuân ở trên tầng 3, nhà số 90 Trần Hưng Đạo): “Anh Nguyễn Tuân có nhà không?”. Nguyễn Tuân mở cửa sổ nói chõ xuống: “Nguyễn Tuân có nhà nhưng không tiếp khách” (Có “dị bản” khác: Nguyễn Tuân mở cửa sổ trả lời Võ Hồng Cương: “Nguyễn Tuân đi vắng”).

Nghe có vẻ rất Nguyễn Tuân đấy chứ!. Nhưng sự thật có chuyện ấy không? Tô Hoài nói, Nguyễn Thành Long nó bịa ra thế thôi. Tôi hỏi Nguyễn Tuân rồi. Chuyện bịa, không có đâu.

Một thí dụ khác: Tạ Tỵ trong Nam, hồi trước 1975, có viết một cuốn sách về chân dung một số nhà văn. Anh ta dựng đứng lên một chuyện về Nguyễn Tuân: Nguyễn Tuân ốm nằm ở bệnh viện Phủ Doãn. Ông thèm rượu quá mà bị cấm, đang đêm bèn leo tường trốn ra bờ hồ Hoàn Kiếm uống rượu và chết luôn trên ghế đá. Cũng có vẻ rất Nguyễn Tuân đấy chứ!

Tôi đọc bài viết này của Tạ Tỵ đúng vào thời gian luôn tiếp xúc với Nguyễn Tuân để làm Tuyển tập.

Giờ lại nghe chuyện anh Đình Quang. Chả biết thực hư thế nào!

Quan Hoa, cuối thu năm 2006.

Không có nhận xét nào: