Trích Chương XIII – Hồi ký Nguyễn Đăng Mạnh
Nguyễn Tuân rất vui tính. Bốc lên cũng hò cũng hát rất nhộn. Theo Tô Hoài, những lúc ấy ông thường hò chèo đò hoặc hát đường trường. Ông cũng hay diễn trò nhại giọng điệu người này người khác để giễu cợt. Xong, cười thích thú. Ông nhại giọng Huế rất đạt và có duyên.
Lúc ấy, tôi chợt nhớ ra
Nguyễn Tuân vốn là một diễn viên kịch nói có tài từng đóng vai chính trong các
vở Kim tiền của Vi Huyền Đắc và Ngã ba của Đoàn Phú Tứ. Và đã từng được tuyển
vào đoàn tài tử đi sang Hồng Kông đóng phim Cánh đồng ma.
Nguyễn Tuân rất thích
truyện tiếu lâm, tiếu lâm ta, tiếu lâm Tây. Tôi nhớ có một hồi, ở trong nhân
dân ta, phát triển rất mạnh một loại truyện vui gọi là tiếu lâm hiện đại nhằm
giễu cợt những sự việc, những nhân vật đương thời. Nguyễn Tuân có vẻ rất thích
những truyện ấy. Có lần ông kể tôi nghe một truyện về Phạm Tuân: “Cái hôm người
ta phóng con tầu đưa Phạm Tuân lên vũ trụ, Võ Nguyên Giáp, Hoàng Quốc Việt có
tới dự. Một điều lạ là khi nhiên liệu đã nổ rầm rầm mà con tầu không thấy bay
lên. Các công trình sư Liên Xô chạy đôn chạy đáo kiểm tra kỹ thuật mọi mặt đều
chẳng có gì trục trặc cả. Võ Nguyễn Giáp ngẫm nghĩ một lát rồi đề nghị cho mình
đến gặp Phạm Tuân. Tuy biết Võ Nguyên Giáp không hiểu gì về kỹ thuật, nhưng vì
nể một vị đại tướng lại là uỷ viên Bộ Chính trị Việt Nam nên họ đồng ý. ..Võ
Nguyên Giáp vào gặp Phạm Tuân một lát , vừa quay ra thì con tầu đã vọt thẳng
lên trời. Các vị có mặt hôm ấy hỏi tướng Giáp đã làm thế nào. Giáp không nói,
chỉ tủm tỉm cười.
Khi về nước, Lê Duẩn lập
tức triệu ngay Giáp đến để hỏi. Giáp vẫn không chịu nói. Duẩn nghiêm mặt: “Anh
giữ bí mật quốc gia là đúng. Nhưng tôi là tổng bí thư mà anh cũng giữ bí mật
sao? Võ Nguyên Giáp đành phải nói thật: “Có gì đâu, tôi thọc tay ngay vào túi
quần nó. Quả nhiên thấy có mấy cái đinh ốc nó vừa xoáy ở con tàu. Tôi quát:
“Muốn sống lắp trở lại ngay!” Thế là con tàu bay vọt lên trời”.
Ông còn kể tôi nghe một
truyện nữa – một truyện tiếu lâm Tây. Đó là lần cuối cùng tôi gặp Nguyễn Tuân.
Buổi sáng hôm ấy, như mọi ngày, ông có thói quen đi dạo quanh phố xá mấy vòng
rồi tạt vào Hội Nhà văn một lúc. Lúc đó tôi nhớ đang có mặt Nguyễn Khải, Bùi
Bình Thi, Xuân Quỳnh, Hà Minh Đức và tôi. Ông đến sau, thấy tôi, ông nói, đã
lâu lắm không gặp. Chính hôm ấy ông lại nhắc lại với tôi một cách thích thú cái
tâm sự rất riêng của Đặng Thai Mai đã nói trên kia. Rồi ông kể tôi nghe một
truyện tiếu lâm của Pháp: “Có một lão giám mục kia, vào lúc hấp hối, phát biểu
một nguyện vọng cuối cùng là muốn được xem “cái ấy” của đàn bà ngoại đạo nó như
thế nào. Người ta thông cảm, đáp ứng yêu cầu của ông. Xem xong, ông ta nói:
“Tưởng thế nào, hoá ra cũng chẳng khác gì của các nữ tu sĩ”.
Nói dứt câu, Nguyễn Tuân
cười khoái chí.
Nghe nói ở kỳ Đại hội
văn hoá toàn quốc tại Việt Bắc năm 1948, Nguyễn Tuân, ngay trên diễn đàn, dám
kể chuyện “cái rắm thơm, cái rắm thôi”. Hồi ấy sinh hoạt văn nghệ còn thoải mái
lắm mới có thể có chuyện tếu như thế được. Từ năm 1951 trở đi, đừng hòng được
như vậy: Đảng ra công khai, biên giới phía Bắc thông với phe xã hội chủ nghĩa,
sự đổ bộ của tư tưởng Xtaline và Mao Trạch Đông, chỉnh huấn về lập trường giai
cấp chuẩn bị cải cách ruộng đất… Rồi yêu cầu của chiến tranh giải phóng dân tộc
phải tập trung cổ vũ chiến đấu: Ta là chính nghĩa, là anh hùng, không được giễu
cợt! Tiếng cười hầu như mất hẳn trong đời sống văn học.
Tôi cho rằng, ở Nguyễn
Tuân, luôn tiềm tàng một cái gọi là chất trẻ trung tinh nghịch, thể hiện ở
người và ở văn.
Trong cuốn 40 năm
nói láo, Vũ Bằng tỏ ra biết khá nhiều về cá tính độc đáo của Nguyễn Tuân. Đọc
tập hồi ký này, thấy Nguyễn Tuân bày ra lắm trò tinh nghịch rất oái oăm, kỳ
quái. Chẳng hạn, ngủ lại xóm hát, bỗng dưng leo lên mái nhà ả đào chơi. Rồi bắt
ả đào giả vờ chết để diễn trò khóc lóc ầm ĩ khiến hàng xóm láng giềng tưởng thật
chạy sang chia buồn… Cụ Nguyễn Lương Ngọc còn kể tôi nghe chuyện này về Nguyễn
Tuân: đang ngồi ở nhà ả đào, tự nhiên phóng tay đấm mạnh vào cửa kính cho vỡ
toang ra. Chả để làm gì cả. Y như người dư thừa sinh lực vậy. Hay là đang nửa
đêm, dạy cặm cụi đánh giầy cho tất cả quan viên… Nguyễn Tuân hay có những ý
nghĩ nghịch ngợm: chẳng hạn, tuyên bố, khi chết, muốn người ta đốt xuống cho
mình vài hình nhân nhà phê bình. ở dưới ấy rỗi rãi, trò chuyện với mấy tay phê
bình chắc cũng vui. Hoặc đến các vị trong Ban chấp hành Hội nhà văn, đề nghị
cho biết khi mình chết thì sẽ thuê mấy ô tô đi đưa. Hỏi thế để bây giờ xin
trước vài cái đi uống rượu, sau này xin cứ trừ đi… Trong văn cũng thế. Như
trongMột chuyến đi chẳng hạn, ông nẩy ra ý nghĩ đem giam chung với nhau
mấy thằng nghiện thuốc lá nặng, rồi theo dõi xem chúng ứng xử với nhau như thế
nào khi cạn bao thuốc. Còn trong Sông Đà thì lại tưởng tượng ra cái
cảnh ở một bến nước kia, đàn ông, đàn bà đang tắm táp, tự nhiên nước sông đột
ngột rút sạch, mọi người thấy mình bỗng tênh hênh tô hô cả ra (chi tiết này
trong những lần in lại, không thấy nữa)…
Các vị Vũ Đức Phúc, Nam
Mộc, Như Phong, Phan Cự Đệ… chắc cho thế là nhảm nhí, là vớ vẩn. Tôi thì cho
đấy chính là cái chất trẻ trung hồn nhiên rất có duyên của Nguyễn Tuân.
Nguyễn Khải nhiều lần
nói, Nguyễn Tuân là người sướng nhất: ngông nghênh, khinh bạc, chẳng trọng ai,
chỉ trọng mình, vậy mà đi đâu cũng được chiều chuộng, đón rước, nể trọng. Lại
có người tự nguyện điếu đóm, phục vụ tận tình.
Nguyên Ngọc có lần cùng
sang Liên Xô với Nguyễn Tuân. Họ ở Lêningrát vào đúng dịp tuyết đầu mùa. Người
ta biết Nguyễn Tuân rất thích xem tuyết rơi, nên dành cho ông một căn phòng rất
thuận tiện để ngắm tuyết (về nước, ông có viết một bài đăng trên Văn nghệ gọi
là Lêningrat, tuyết đầu mùa). Năm sau Nguyễn Tuân lại sang Liên Xô. Đến
Mạc Tư Khoa đúng vào dịp tuyết đầu mùa. Người ta lại đưa ông về đúng cái căn
phòng năm trước ở Lêningrát để xem tuyết rơi. Theo Nguyên Ngọc, ở Liên Xô, Nguyễn
Tuân được coi như một thượng khách. Lại có một anh tên là Marian, chuyên dịch
Nguyễn Tuân sang tiếng Nga. Trong nhà mình, Marian chỉ treo độc một bức chân
dung Nguyễn Tuân.
Nguyễn Khải kể với tôi
chuyện này: Sau 1975, có lần Nguyễn Tuân vào Sài Gòn. Ông bị khớp nặng, nằm
liệt trên lầu. Trịnh Công Sơn ngày nào cũng tự nguyện lo chuyện ăn uống theo
khẩu vị Nguyễn Tuân: nấu cơm niêu đất ăn với cá bống kho tiêu là món Nguyễn
Tuân thích.
Ở tầng dưới thì Nguyễn
Khải và Nguyễn Thành Long đóng vai tiếp khách cho Nguyễn Tuân. Ai đến thăm thì
lên báo cáo xem ông có tiếp không. Nhiều người ông không tiếp, phải để quà đấy
đi về. Có một lần Marian lúc ấy đang ở Sài Gòn, đến thăm. Nguyễn Khải và Nguyễn
Thành Long nghĩ là trường hợp này không phải báo cáo, cứ cho lên luôn. Marian
hôm ấy lại dắt theo một tay Liên Xô nữa. Nguyễn Khải cứ thấy ông mắng Marian
xơi xơi: “Sao mày lại đưa thằng ấy lên!”. Khải nói: “Lần đầu thấy một thằng
“tiểu quốc” mắng một thằng “đại quốc”, nghĩ cũng mát ruột”.
Nguyễn Minh Châu cũng
cho Nguyễn Tuân là sướng. Sau 1975, Hội An có tổ chức một cuộc kỷ niệm gì đó,
mời Nguyễn Tuân vào viết cho một bài. Lúc ấy Nguyễn Khải và Nguyễn Minh Châu
đang ở Đà Nẵng, muốn có xe vào Hội An chơi, bèn bịa chuyện cần một ôtô vào
trước để sửa soạn đón Nguyễn Tuân hôm sau vào. Thế là được cấp luôn một chuyến
xe. Thực ra bịa thế thôi chứ có sửa soạn gì đâu! Nguyễn Tuân vào đã có xe
riêng, một mình một xe. Hồi ấy chuyện xe cộ không sẵn như bây giờ.
Nghe nói, ngày xưa,
Nguyễn Tuân chơi cô đầu cũng rất sang. Thường bồ bịch với đào hát nổi tiếng
hoặc bà chủ nhà hát. Không phải bao gái mà lại được gái bao. Hồi kháng chiến
chống Pháp, ở chiến khu Việt Bắc, ông được cô đào hát nhân tình nào đó gửi vàng
từ Hà Nội ra cho ông tiêu. Riêng tôi được chứng kiến một chuyện cũng lạ.
Ấy là ngày làm lễ bế
giảng trường Nguyễn Du khoá một long trọng lắm. Quan khách đến dự rất đông. Có
đủ bộ trưởng, thứ trưởng, trung ương uỷ viên và các nhà văn có tên tuổi ở Hà
Nội. Anh điều khiển buổi lễ, giới thiệu lần lượt các đại biểu. Giới thiệu ai
thì người ta cũng chỉ ngồi vỗ tay tại chỗ thôi. Nguyễn Tuân đến muộn. Không
hiểu sao, cả hội trường không ai bảo ai, cùng đứng dậy vỗ tay dài.
Vì thiên hạ vốn trọng
người tài chăng? Nguyễn Tuân đúng là một cái tài. Nhưng người tài đâu chỉ có
Nguyễn Tuân? Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Nguyễn Đình Thi… không tài à?
Tôi cho Nguyễn Tuân được
trọng vì vừa có tài vừa có nhân cách. Nhưng giữ được nhân cách đâu có dễ. Cái
nghèo, cái đói, cái sợ (sợ cấp trên) khiến người ta khó giữ được nhân cách, tuy
biết thế là hèn. Vì thế người có nhân cách càng hiếm, càng quý. Cho nên có một
người như Nguyễn Tuân là rất sang cho giới nhà văn.
Trong nhiều tác phẩm của
mình, nhất là trong Chiếc lư đồng
mắt cua, Nguyễn Tuân thường vẽ mình như một kẻ bê tha, trác táng, bẩn thỉu,
nhếch nhác, rượu chè be bét, suốt ngày chui rúc vào cái màn hôi hám của ông
Thông Phu, một con nghiện bị bệnh bại liệt bán thân bất toại. Uống rượu thì say
đến mức úp mặt vào mâm bát mà gào, mà hò hét như thằng điên… Thực ra trong đời
thực, ông có phải như thế đâu. Hồi ở Việt Bắc bà Trần Minh Tước cùng làm việc
với tôi ở Sở Giáo dục Liên khu Việt Bắc vốn quen thân với Nguyễn Tuân, nói với
tôi: “Ông ấy đến cái maillot, cái quần lót cũng giặt là cẩn thận”.
Còn uống rượu thì không
bao giờ quá chén. Tô Hoài gọi là uống rượu ngữ, nghĩa là có chừng mực chứ không
say bét như Hoàng Trung Thông…Ông Hoài Thanh chê Nguyễn Tuân có lắm lệch lạc về
tư tưởng, từng bị cánh nhân văn lợi dụng, nhưng ông vẫn thấy Nguyễn Tuân không
bê tha truỵ lạc như nhiều tay trong nhóm Nhân văn, nghĩa là Hoài Thanh cũng rất
nể Nguyễn Tuân về nhân cách.
Tôi lại nghe nói, sau
1975, một số nhà xuất bản ở Sài Gòn tự nguyện trả tiền nhuận bút cho những nhà
văn “tiền chiến” sống ở miền Bắc, mà trước 1975, họ có in lại sách này sách
khác để bán. Các vị đều nhận cả, riêng Nguyễn Tuân từ chối.
***
Trở lại câu chuyện
Nguyễn Tuân và Nguyên Ngọc ở Liên Xô. Trong thời gian Nguyễn Tuân ở Liên Xô,
người ta cử một cô gái Nga làm phiên dịch cho ông. Cô gái rất đẹp – đẹp như
tượng – Nguyên Ngọc nói thế (Chắc là đẹp như tượng thần Vệ nữ ở Milô chăng?).
Nguyễn Tuân nhờ cô gái mua cho mình mười bông hồng tươi. ở Nga, giữa mùa rét, hoa
hồng rất đắt: 12 rúp (trong khi một cái bàn là điện hay một cái áo bay có 7
rúp). Hỏi mua để làm gì, ông không nói. Mua về, ông tặng luôn cho cô gái phục
vụ mình. Cô gái Nga lấy làm lạ, vì cô biết Việt Nam còn nghèo lắm, lại đang có
chiến tranh, sao ông nhà văn này lại chơi sang thế, không dành tiền mua quà cáp
gì về nhà. Cô ta áy náy, bèn tự mình đi mua một ít hàng rồi gói ghém, bắt
Nguyễn Tuân mang về. Cô hỏi, các nhà văn nước ông có như thế cả không? Nguyễn
Tuân nói, tôi chỉ là một nhà văn xoàng ở Việt Nam thôi. Ông nói thế, chắc là để
làm sang cho giới văn nghệ Việt Nam vốn rất nhếch nhác mỗi khi ra nước ngoài.
Hoạ sĩ Đào Đức còn kể
chuyện này: Một lần Nguyễn Tuân cùng Kim Lân sang Liên Xô. Mấy ngày đầu người
ta chưa cấp tiền. Nhà văn Simônốp ngỏ ý biếu mỗi người 50 rúp tiêu tạm. Nguyễn
Tuân từ chối, Kim Lân chả lẽ lại nhận, nhưng tiếc quá, nói với Đào Đức: mình
cảm thấy cứ y như là bị móc ví mất 50 rúp.
Mọi người đều biết,
Nguyễn Tuân là người ham chơi, ham “xê dịch”. Nhưng không vì thế mà vất bỏ nhân
cách. Vào lúc đã cao tuổi, ông có được mời sang Pháp, nhưng ông từ chối. Ông
nói với tôi: “Già rồi sang đấy mà chết ở đấy thì nhục quá!”.
Đấy, Nguyễn Tuân sở dĩ
được trọng là vì thế. Mình không giữ được nhân cách thì ông ấy giữ hộ, đại diện
giới nhà văn giữ hộ.
Nguyễn Tuân nổi tiếng là
ngông. Đúng thế. Nhưng chơi ngông không dễ đâu. Không có tài, không có đức,
chơi ngông làm sao được! Ngông có cả một cơ sở đạo lý của nó đấy. Cho nên những
bậc chơi ngông xưa nay đều là những tấm gương đạo đức cả – Tản Đà gọi là “thiên
lương”: “Hai chữ thiên lương thằng Hiếu nhớ”
Nguyễn Công Trứ, Nguyễn
Khuyến, Tú Xương, Tản Đà, Nguyễn Tuân đều thế cả. Sau Nguyễn Tuân, hình như
trong giới văn học, không còn ai dám chơi ngông nữa thì phải.
Ở Nguyễn Tuân tôi thấy
có một cái gì rất cổ điển, không phải chỉ trong văn đâu mà trong lối sống, tác
phong sống. Ông không chỉ viết văn cho hay, cho đẹp mà còn muốn sống đẹp nữa.
Chất cổ điển chính là ở
chỗ đó. Các cây bút hiện đại chỉ lo sản xuất văn chương cho nhiều, cho tốt, còn
sống thế nào cũng được, cốt sao cho khoẻ, cho sướng. Xuân Diệu, Huy Cận, Chế
Lan Viên, Tô Hoài, Nguyễn Đình Thi… là như thế.
Người xưa tư duy nguyên
hợp (syncrétique), óc phân tích chưa phát triển nên thường không phân biệt thực
và hư, chân và ảo, con người và thiên nhiên, cuộc sống và nghệ thuật. Cho nên
người quân tử nói năng cũng có văn vẻ, ăn uống cũng có phép tắc, chào hỏi cũng
có điệu bộ, ngôn ngữ tình yêu cũng kiểu cách, khóc than cũng lên bổng xuống
trầm (văn tế), thậm chí đánh nhau mà như vũ đạo… Cho nên Trần Hưng Đạo truyền
hịch mà thành văn chương, Nguyễn Trãi viết cáo mà hình tượng tầng tầng lớp lớp…
Từ đó, không phân biệt sự sống và nghệ thuật, cuộc đời hay sân khấu…
Nguyễn Tuân là một trí
thức Tây học, một cây bút hiện đại. Những tác giả phương Tây mà ông chịu ảnh
hưởng sâu sắc là những nhà văn vào loại hiện đại nhất như Marcel Proust, André
Gide… Tuy nhiên ở ông vẫn có một cái gì giống như Nguyễn Công Trứ, Tú Xương,
Tản Đà… Không phải chỉ làm nghệ thuật mà trước hết sống cho đẹp, cho nghệ
thuật. Và về nhân cách vẫn phảng phất cái cốt cách trượng phu quân tử.
Nguyễn Tuân là cây bút
có phong cách nghệ thuật rất sâu. Nhưng trong cung cách sống nhiều khi ông cũng
cố tình tạo cho mình một phong dạng (manière) riêng khá kiểu cách: từ cách để
ria mép, cách cầm cái can, ngậm cái píp, cách đi đứng… không phải ông không có
ý tạo dáng cho đẹp. Ông sành sỏi hát ả đào, đấy cũng là một cái thú chơi cổ
điển. Trước cách mạng tháng Tám, hồi còn ở Thanh Hoá, ông mở một hiệu sách đặt
tên là Thư Trang, về Hà Nội, làm cái nhà ở Cống Mọc, ông gọi là Am Sông
Tô…nghĩa là cũng thích văn vẻ. Ngay sau cách mạng tháng Tám, đến dự Hội nghị
Văn hoá cứu quốc giữa Hà Nội, ông vẫn mặc áo gấm, đội khăn xếp… tôi cho cũng là
một cách “diễn” đấy thôi – diễn trò ngông nghênh nghệ sĩ trước bàn dân thiên
hạ… Một con người như thế, tất không thích ai đến thăm khi ốm đau. Ông có bệnh
thấp khớp mãn tính nặng, mỗi lần phát bệnh, chân tay sưng tấy, co quắp, phải vệ
sinh tại chỗ, trông chẳng “mĩ thuật”, chẳng “nghệ sĩ” tí nào. Một lần tôi đến
ông, đúng lúc ông ốm. Ông đang ngồi ở mép phản, thõng chân xuống. Có một người
nữa quay lưng lại hình như một người nhà đang làm gì để giúp ông. ông nheo mắt
nhìn tôi từ xa, lúc đầu ngờ ngợ, sau nhận ra, ông có vẻ bối rối, luống cuống:
- Sao, có việc gì thế?
- Không có gì. Đến thăm
bác thôi.
- Thế thì cám ơn, cám
ơn. Thôi để lúc khác nhé.
Sợ tôi chưa hiểu, ông
chỉ xuống cái bô ở gậm phản…
Tôi ngượng quá, vội bỏ
ra.
Một lần khác, tôi đến
thăm ông cũng đúng vào lúc ông ốm. Nhưng lần này cửa đóng. Ngoài cửa tôi thấy
có dán một tờ giấy lớn ghi mấy dòng chữ: “Bệnh nhân Nguyễn Tuân không tiếp
khách, bao giờ khỏi sẽ xin đến tạ. Ai đến, xin gọi và xướng tên hai lần. Không
có tiếng trả lời thì xin vui lòng lui cho. Cám ơn”.
Đến thăm mà phải xướng
tên, ai còn đến làm gì!
Như đã nói, tôi gặp
Nguyễn Tuân lần cuối cùng vào buổi sáng ngày thứ bẩy 25 – 7 – 1987 ở trụ sở Hội
nhà văn, 65 Nguyễn Du. Trông ông rất đẹp lão. Nguyễn Khải nhận xét và nói một
câu rất gở: “Đẹp lão thế là sắp sửa đấy!” Nguyễn Tuân nói, ông không sợ chết,
chỉ sợ ốm kéo dài thôi. Hôm ấy, ông nói rất nhiều chuyện vui. Tôi đã từng nghe
câu nói của ông về các nhà phê bình: khi chết đi, muốn người ta đốt xuống cho
mình vài anh phê bình… Hôm ấy ông lại cho ra thêm một câu nữa: “Vừa rồi có mấy
anh nhà văn nước ngoài đến hỏi tôi: “Ông thường có thói quen viết vào lúc
nào?”. Tôi nói, thường vào ban đêm. Họ hỏi lý do. Tôi nói: “Vì lúc ấy các nhà
phê bình họ đi ngủ cả rồi!”.
Tôi thấy ông cầm trên
tay một điếu thuốc lá nhưng không hút, lại còn xin thêm Nguyễn Khải điếu nữa.
Ông nói: bác sĩ nói phải hạn chế hút. Mỗi ngày một điếu thôi, tránh hít sâu
vào. Còn rượu thì cấm hẳn. Và phải tránh có xúc động mạnh. Rồi ông cười: “Làm
nghề viết văn mà phải tránh xúc động thì còn viết gì được nữa!”.
Ấy thế mà đúng 3 ngày
sau ông qua đời.
Bửu Chỉ ở Huế ra Hà Nội.
Chị Ngọc Trai tổ chức một bữa nhậu. Nguyễn Tuân uống rượu. Hôm sau vào bệnh
viện và tịch luôn. Anh Đình Quang nói, lẽ ra ông chưa chết. Ông tự tử đấy. Ông
nằm cùng với một bệnh nhân nào đó. Ông khó ngủ, dậy bật đèn lên. Ông kia tắt
đi.
Người bật lên, người tắt
đi, cứ thế mấy lần. Bực quá, ông uống một liều thuốc gì đó và đi luôn.
Chuyện chả biết có thật
thế không. Nhưng anh Nguyễn Xuân Đào, con trai Nguyễn Tuân lại bảo không phải.
Ông chết là vì đêm ấy ông uống đến nửa chai rượu. Thế thì có trời cứu!.
Nhưng như thế thì cũng
là một cách tự sát chứ sao! Vì chính ông đã biết phải kiêng rượu kia mà! Thuốc
lá còn được hút mỗi ngày một điếu. Còn rượu thì cấm hẳn.
Như vậy thì điều anh
Đình Quang nói không hẳn đã sai. Chung quanh những người nổi tiếng và độc đáo,
thiên hạ thường thêu dệt ra lắm giai thoại. Chung quanh Nguyễn Tuân xưa nay
cũng lắm giai thoại. Thí dụ, nhiều người, tôi cũng thế, nghe nói và tin ở câu
chuyện này: Võ Hồng Cương, bí thư đảng đoàn Bộ Văn hoá đến thăm Nguyễn Tuân.
Đứng dưới sân, Cương gọi vọng lên lầu (Nguyễn Tuân ở trên tầng 3, nhà số 90
Trần Hưng Đạo): “Anh Nguyễn Tuân có nhà không?”. Nguyễn Tuân mở cửa sổ nói chõ
xuống: “Nguyễn Tuân có nhà nhưng không tiếp khách” (Có “dị bản” khác: Nguyễn
Tuân mở cửa sổ trả lời Võ Hồng Cương: “Nguyễn Tuân đi vắng”).
Nghe có vẻ rất Nguyễn
Tuân đấy chứ!. Nhưng sự thật có chuyện ấy không? Tô Hoài nói, Nguyễn Thành Long
nó bịa ra thế thôi. Tôi hỏi Nguyễn Tuân rồi. Chuyện bịa, không có đâu.
Một thí dụ khác: Tạ Tỵ
trong Nam, hồi trước 1975, có viết một cuốn sách về chân dung một số nhà văn.
Anh ta dựng đứng lên một chuyện về Nguyễn Tuân: Nguyễn Tuân ốm nằm ở bệnh viện
Phủ Doãn. Ông thèm rượu quá mà bị cấm, đang đêm bèn leo tường trốn ra bờ hồ
Hoàn Kiếm uống rượu và chết luôn trên ghế đá. Cũng có vẻ rất Nguyễn Tuân đấy
chứ!
Tôi đọc bài viết này của
Tạ Tỵ đúng vào thời gian luôn tiếp xúc với Nguyễn Tuân để làm Tuyển tập.
Giờ lại nghe chuyện anh
Đình Quang. Chả biết thực hư thế nào!
Quan Hoa, cuối thu năm 2006.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét