Trích Chương IX – Hồi ký Nguyễn Đăng Mạnh
Hồi kháng chiến chống
Pháp, có lần tôi đã được thấy Xuân Diệu. Lúc ấy tôi đang học ở trường Trung học
kháng chiến đóng ở Đào Giả – Phú Thọ. Tôi đi khám bệnh ở một bệnh viện ở Đại
Đồng. Hình như anh cũng đi chữa răng thì phải. Có người biết Xuân Diệu, chỉ cho
tôi. Anh đi xe đạp, mái tóc lượn sóng, rất thi sĩ.
Từ ngày về Hà Nội học,
rồi công tác ở Đại học, tôi có dịp đến Xuân Diệu mấy lần cùng với Nguyễn Duy
Bình và Hoàng Ngọc Hiến. Vào cuối những năm 60, sang những năm 70 của thế kỉ
trước, tôi luôn viết cho tạp chí Tác phẩm
mới do Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Tô Hoài thay phiên nhau phụ trách, vì thế
luôn có dịp tiếp xúc với Xuân Diệu.
Xem chừng anh rất tín
nhiệm tôi. Có lần tôi ngồi uống cà phê với anh ở 24 Điện Biên, bỗng anh nói:
“Đây là hai tài nhân nói chuyện với nhau” (Anh không nói nhân tài mà lại nói
tài nhân) .
Khi tập thơ Những năm 60 của Huy Cận ra đời,
Xuân Diệu đặt tôi viết bài phê bình đăng Tác
phẩm mới. Anh nói, Huy Cận đang đi Pháp, Mạnh phải viết thẳng tay, nêu rõ
nhược điểm cho cậu ta đỡ chủ quan. Tập thơ nhiều bài yếu lắm. Khi viết bài ấy,
anh có trao đổi góp ý với tôi.
Biết anh mến tôi, tôi
đến anh luôn.
Xuân Diệu là người rất
chu đáo, thiết thực và tiết kiệm. Chu đáo, thiết thực, tiết kiệm đến tỉ mỉ, chi
tiết. Thấy tôi viết bản thảo kín cả hai mặt giấy, anh cho tôi một cuốn giấy
báo, bảo rọc ra, viết một mặt thôi (Hồi này đời sống khó khăn đến nỗi giấy
trắng để viết văn, viết báo cũng thiếu thốn. Tôi thường phải dọc giấy để dùng
làm bản thảo những tờ giấy bỏ thừa không viết hết ở cuối những bài tập làm văn
của học sinh, vợ tôi thường thu về nhà để chấm). Những lần tôi đến anh vào buổi
chiều, mải nói chuyện đến gần tối, anh thường giục tôi về, vì đường thì xa, đi
lại nguy hiểm. Anh nói: “Có thể ở nhà vợ lo bị cướp xe đạp ấy chứ!”. Có lần
trời nắng, đi qua nhà anh, tôi tạt vào mượn cái mũ. Anh cho mượn cái mũ lá đã
cũ (hình như của Hà Vũ, con Huy Cận), vậy mà vẫn dặn phải giữ cẩn thận, khi nào
ra Hà Nội trả lại anh. Có lần đang ngồi với anh, thấy có người nhà đem sách báo
cũ ra bán cho hàng đồng nát. Anh gọi với theo: “Này, những cái bìa sách các
tông đẹp, nhớ lấy lại mà dùng”. Thấy anh có một u già giúp việc (U Khang), tôi
tưởng mọi việc chợ búa, bếp núc, anh chẳng phải quan tâm. Vậy mà không phải.
Anh tỏ ra rất thạo giá cả thực phẩm ngoài chợ, giá trứng, giá thịt. Có lần tôi
đã được nghe anh tính toán rất tỉ mỉ: “ Ba quả trứng gà 33 đồng, 2 quả trứng
vịt lộn giờ 18 đồng một quả, nhân 3 là 36 đồng, bổ hơn 3 quả trứng gà chứ, 3
lạng thịt bò nhiều hơn 3 lạng thịt lợn, vì thịt bò nhẹ hơn. Nhưng 3 lạng thịt
bò có bổ hơn 2 quả trứng vịt lộn không thì chưa rõ. Nhưng cũng phải đổi món
chứ…Còn thịt chó thì thịt lẫn xương 4 đồng rưỡi một lạng, thịt nầm 6 đồng một
lạng…” (Tính theo giá tiền đầu những năm 1980). Thấy tôi nhiều khi có vẻ lơ
đãng, cẩu thả, anh thường nói giễu: “Cậu đúng là nhà văn lớn”, hoặc “cậu nghệ
sỹ quá, nghệ sĩ hơn cả mình”.
Một lần tôi đến Xuân
Diệu với con trai tôi là Nguyễn Đăng Thanh. Nó sắp đi nước ngoài học. Tưởng tôi
đưa con đến chào anh trước khi đi Liên Xô, anh rất cảm động. Anh sôi nổi dặn dò
cháu đến nửa tiếng đồng hồ. Xuân Diệu thỉnh thoảng có một chuyến đi xa, như đi
Liên Xô, Pháp hay Ấn Độ gì đó. Bao giờ anh cũng chú ý mua quà về cho những
người thân. Nhưng không tuỳ tiện mà lập danh sách hẳn hoi, và tuỳ từng người mà
tặng các món quà khác nhau. Tôi cũng được nằm trong danh sách ấy. Khi thì một
cái áo sơ mi, khi thì một bao thuốc lá ngoại, sang nhất là một cái đồng hồ đeo
tay Liên Xô hiệu Poljot.
Xuân Diệu làm việc rất
cần cù. Một tấm gương lao động quyết liệt: đọc sách, dịch sách, viết văn, làm
thơ. Mùa hè, tôi thấy anh xoay trần ra viết. Nghỉ ngơi cũng là học tập. Anh mở
nhạc cổ điển ra nghe. Anh nói, cứ nghe nhạc mãi, dù không hiểu nó cũng thấm vào
người. Vậy mà có ai đến chơi, anh vội vàng xếp cả lại, tiếp đón rất nhiệt tình.
Kể cả người anh không ưa. Có một lần đang nói chuyện với anh, thấy một người
ghé vào. Anh tiếp rất niềm nở. Khi người ấy về, anh nói với tôi: “Sao tôi ghét
thằng cha này thế!”. Ghét mà vẫn tiếp chu đáo? Đoán biết tôi thắc mắc thế, anh
giải thích: “không tiếp nó lần sau nó không đến nữa”. Tôi nhớ lại, có lần anh
nói: “Người ta yêu vờ yêu vịt còn hơn là lạnh như tiền. Người ta vỗ tay để lấy
lòng mình thôi còn hơn là không vỗ tay”. Lại nhớ câu thơ của anh:
Và hãy yêu tôi một giờ
cũng đủ
Một giây cũng cam, một
phút cũng đành.
Thì ra Xuân Diệu rất sợ
cô độc. Rất lo không có ai thương mình, không có ai nhớ mình, tìm đến với mình.
Xuân Diệu rất sợ chết.
Có lần tôi đến anh. Anh chỉ bức ảnh bà má của anh mắc vào giá sách, nói: “Bà má
mình đấy. Bà ấy mất rồi. Không có bằng chứng gì chứng tỏ bà đã từng sống ở trên
đời”.
Lần khác tôi đến anh khi
Như Phong vừa chết. Anh nói, Như Phong chủ quan, cho là mình khoẻ lắm. Không có
doute méthodique về sức khoẻ của
mình. Anh lắc đầu, lè lưỡi: “cái chết ghê gớm thật, nó biến con người ta từ
plus infini thành moins infini!”.
Lúc đó tôi không biết
nói gì. Nhớ đến cái chết của Nguyên Hồng, tôi nói: “Nguyên Hồng cũng chết một
cách đột ngột” (giống Như Phong) Xuân Diệu ngẫm nghĩ một lát rồi nói: “Không,
Nguyên Hồng chết rồi, nhưng cái văn của anh ấy vẫn còn rên rỉ. Còn Như Phong,
chết là không còn dấu vết gì nữa. Mấy bài phê bình, ai đọc!”
Xuân Diệu ngay từ nhỏ đã
rất có ý thức giữ gìn mọi tài liệu, bút tích của mình. Anh còn giữ nguyên năm
cuốn vở học sinh hồi học ở Quy Nhơn, ghi chép linh tinh đủ thứ: nhật ký, những
dòng suy nghĩ tản mạn, dịch thơ, tập sáng tác… Trải qua bao biến thiên của cuộc
đời, rồi những lần sơ tán trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, vậy
mà vẫn giữ nguyên, không sờn không rách.
Một con người có ý thức
rất cao về bản thân mình.
Đọc mấy quyển vở ấy, tôi
thấy có một bài thơ anh đặt tên là ”Những người chết trẻ”. Chắc là một người
bạn học của anh chết, anh xúc động làm bài thơ này. Bài thơ khá dài, gồm nhiều
đoạn, đoạn nào cũng chỉ xoay quanh cùng một ý. Chẳng hạn, đoạn một nói về các
bạn gái rất thương bạn, khóc. Nhưng rồi yêu người này, người khác và quên. Đoạn
hai, nói về các bạn trai, đoạn ba nói về anh chị em ruột, ý vẫn thế thôi: lúc
đầu thương, khóc, sau cũng quên. Đoạn cuối cùng nói về cha mẹ. Cha mẹ thì không
bao giờ quên con, nhưng cha mẹ sẽ già và chết. Thế là hết, chẳng còn ai thương
nhớ mình nữa:
Nhớ các anh hoài chỉ mẹ
cha,
Song tro tàn lạnh không
còn lửa,
Rồi đèn mờ tắt. Thế là
thôi,
Không một người thương ở
cõi đời.
Cùng một ý ấy – “Những
người chết trẻ” – tôi còn thấy một bài thơ khác ở dạng một bản nháp:
Vẻ đẹp và non và mạnh mẽ
… yêu như điên
Biết bao hình bóng đầy
vẻ thơ.
Biết bao khuôn mặt còn
ngây thơ.
Biết bao mái tóc còn như
tơ
Biết bao cặp mắt đầy ước
mơ
Sau cái màn quên đã mịt
mờ!
Biết bao chàng thanh
niên đã chết
Đã chết! Tiếng sao mà
gớm ghê!
Đã chết! Đã đi không còn
về.
Mang theo lực, tài,
xuân, hương, huê
Đã chết, tiếng sao mà
thảm thê!
Biết bao chàng thanh
niên đã qua
Như gió xuân đi không để
vết
Thế đấy, biết bao chàng
thanh niên
Đã chết trước khi chưa
được sống…
Té ra, từ tuổi thiếu
niên, Xuân Diệu đã nghĩ đến cái chết, đã lo đến khi phải từ giã cõi đời này. Và
điều đặc biệt là anh đã nghĩ cách chống lại cái chết, nghĩa là trở thành bất tử
– bất tử trong lòng người.
Chống lại cái chết bằng
cách nào? Bằng cách làm thơ, anh gọi là “Thơ trái tim”.
Trong quyển vở học sinh,
quyển thứ ba (đề tập III, 1934), tôi thấy anh, ngay từ tuổi học trò, đã có hẳn
một lí thuyết về sự bất tử của thi ca. Anh viết một đoạn văn dài, đặt dưới cái
đầu đề: “Một bài thơ với một tên người”. Lập luận của anh như sau: “Thơ là đồ chơi, là đồ ru ngủ, là đồ không
thiết thực, nghĩa là – sao không nói hẳn?- đồ bỏ. Các nhà tận tâm về sinh kế
của xã hội, các nhà thiết thực, các nhà nghiêm khắc nói thế. Phải hay không tôi
chẳng cần biết. Với Fontenelle, tôi muốn cho rằng ai cũng phải cả (tout le
monde a raison). Tôi chỉ để ý mà thấy rằng: Ba ngàn năm qua chôn nắm xương tàn
của Homère. Nói về danh vọng và bất hủ, đã ba ngàn năm Homère vẫn được tôn
sùng… Cái gì rồi cũng qua đi. Đế quốc Lamã, đế quốc Charlemagne. Nhưng cái chết
không diệt được cái gì không phải là vật chất. Mà cái đầu tiên không phải là
vật chất chẳng phải là thơ sao? Thơ – cám dỗ của mơ màng…”
“Với những khúc anh hùng
ca (épopée) Jliade, Odyssée, Homère sống đến nay… Song thiên tài thời bất hủ là
lẽ cố nhiên. Phải chăng thơ có cái ma lực siêu việt thời gian, mà đến những
người chỉ có tài (talent) cũng có thể sống ở trong thơ, hơn nữa, trong một bài
thơ?”
“Một bài thơ cứu một tên
người, vớt một tên người ở trong giòng thời gian nó lôi cuốn sự vật vào miền
quên lãng?… Phẩm hơn lượng, le sonnet sans défaut vaut, seul, un long poème…
Nhưng vài câu thơ trong ấy rung động những trái tim lại đáng giá bằng mấy bài
sonnet không nhầm lỗi… Ta để ý xem, những bài thơ cứu một tên người, khá nhiều
là thơ tình cảm, thơ trái tim. Tư tưởng có thể thay đổi, bây giờ còn ai muốn
nghe những lời biện thuyết của Luther, những bài thơ của Rousseau, bây giờ ai
ưa?… Nhưng trái tim người… khi nào cũng có những trẻ con, những bà mẹ, những cô
gái, những mẹ già, nghĩa là những con người, họ yêu thương, họ vui vầy, họ đau
xót… Cho nên tiếng kêu than của Trác Văn Quân vẫn còn tìm thấy tiếng vang trong
lòng những cô Bạch Lệ Ảnh”.
“Ở đây tôi không nói
những danh sỹ như Ronsard, họ có dư thơ để mà sống trường cửu. Tôi chỉ nói
những nhà thi sĩ còn ở trong trí nhớ nhờ một bài thơ. Những nhà thơ ấy cũng có
làm nhiều bài, song chỉ được có một bài xuất sắc. Trên dòng thời gian vô cùng
tận, họ chỉ có một chiếc lá thả trôi đi. Tôi không biết thơ Tàu cho nhiều. Song
tôi vẫn nghe tiếng nàng Ban, ả Tạ. Tôi vẫn còn nhờ ý tứ bài thơ vịnh quạt của
Triệu Yến Phi. Có lẽ trong văn Tàu, người ta cũng còn nhớ đến nàng, nhờ bài thơ
kia”.
Còn ai không biết đến
bài “Hồi văn” của Tô Huệ ? Ở đây mới đúng cái trường hợp một bài thơ với một
tên người…
Như vậy là đối với Xuân
Diệu, điều quan trọng nhất không phải là chuyện văn chương thơ phú mà là chuyện
làm sao được sống mãi với đời, sống mãi với nhân loại. Văn chương thơ phú chỉ
là phương tiện để giúp anh sống mãi trong lòng người, một thứ vũ khí để chống
lại cái chết. Và tôi hình dung cả cuộc đời lao động nghệ thuật quyết liệt của
Xuân Diệu là một quá trình quyết đấu với cái chết.
Trong mấy quyển vở học
sinh ấy, tôi còn thấy điều đặc biệt này ở con người Xuân Diệu: luôn đòi hỏi
tình cảm cao độ, tình yêu mãnh liệt, yêu phải hết mình. Trong mấy quyển vở nói
trên, thỉnh thoảng lại thấy có một đoạn nhật kí. Có một đoạn nhật kí như thế
này: anh ghi tâm trạng rất đau khổ của mình, đau khổ đến mức như là thất tình
vậy. Lúc đầu tôi cứ tưởng thế, chắc là một cô bạn gái nào đấy – vì anh viết tắt
tên cái người mà anh cho là không còn yêu anh nữa. Đọc tiếp mới biết không
phải. Đó là một anh bạn trai. Và lí do rất trẻ con: “Hôm ấy mình đến mượn B cái
quần đùi. B. nói, chốc nữa mình đi đá bóng, không cho mượn được”. Có thế mà đau
khổ! (Khi trả lại mấy quyển vở, tôi nói với Xuân Diệu như thế – Lúc đầu tưởng
là bạn gái, hoá ra là bạn trai – Xuân Diệu ngồi im một lát rồi bảo tôi: “Này,
đừng nói với ai nhé, người ta hiểu lầm!).
Mấy trang sau, tôi lại
thấy một đoạn nhật ký nữa. Cũng vẫn là nỗi đau khổ nói trên – Và vẫn là cái anh
B. nào kia. Lần này, lý do khác: có một gánh hát cải lương Nam kỳ ra biểu diễn
ở Quy Nhơn. Học sinh mua vé đi xem. B. không có tiền, vay một bạn nào đấy tiền
mua vé. Xuân Diệu biết được. Thế là lại đau khổ như là thất tình: bạn bè với
nhau, không có tiền, không nói với mình một tiếng, mà lại đi vay người khác.
Trong mấy quyển vở nói
trên, Xuân Diệu tập viết đủ loại văn thơ nhưng tôi để ý thấy, dù viết thể văn
nào thì chủ yếu cũng quay quanh tình bạn. Và dù là thơ hay văn xuôi, dù là dịch
thơ Pháp, thơ Tầu thì cũng thể hiện sự khao khát tình bạn đến cuồng si mà không
được đền đáp xứng đáng. Một cái tôi cảm thấy cô đơn, vắng người tri kỷ. Ví dụ,
đây là một đoạn văn như thế: “Tôi là một đứa si, gặp bạn thì yêu hết lòng, xa
nhau một khắc thời lấy làm nhớ, thế mà giứt mối tình một cách mau chóng như
thế, làm sao mà chịu nổi phẫn uất, lòng hận sầu? Đêm hôm ấy nằm mà thở dài một
mình, sáng dậy viết cái thư thật dài, gửi cho bạn:
Ôi! Nhân sự.
Trọng của nỡ khinh
người!
Vẫn tưởng lòng son in
một tấm
Đâu ngờ dạ thế trắng như
vôi!
“Bao nhiêu tình đem tặng
bạn tôi, bạn tôi đã không nhận mà quăng xuống đất bùn trả lại cho tôi. Tôi chỉ
xin nhặt lại, rửa cho tinh khiết như cũ, rồi đem chôn kỹ trong một góc quả tim
tôi vậy. Bây giờ tôi chưa quên được tình cũ, song ngày qua tháng tới, có một
ngày cũng sẽ quên. Than ôi! Vũ trụ mang mang, nước non rộng lớn, từ đây đến lúc
chết, suốt một đời há lẽ không kiếm được khách thân bằng ư?”
Luôn luôn đòi hỏi tình
cảm cao độ, nên Xuân Diệu thường dễ có mặc cảm người ta lạnh nhạt với mình. Có
một lần, lâu tôi không đến thăm anh. Khi gặp, anh nói dỗi: “Cậu bây giờ nổi
tiếng rồi nên chán mình chứ gì?”. Tôi nhận thấy Xuân Diệu có một cái gì như là
có chất đàn bà vậy – hay hờn dỗi. Và khác hẳn với Nguyễn Tuân, anh hay bộc lộ
thẳng tình cảm với những người mà anh quý mến.
Thực tình tôi không hiểu
sao Xuân Diệu lại có thể thân với Huy Cận. Họ quả cũng có những chỗ hợp nhau.
Nhưng Huy Cận đâu phải hạng người tử tế, ngay cả trong tình bạn với Xuân Diệu.
Hai ông bạn, có chỗ này
quả là giống nhau: cùng ăn rất khoẻ và chỉ thích thịt cá, trứng vịt lộn, nghĩa
là những thứ nhiều prôtit.
Hồi khoa văn Đại học sư
phạm Việt Bắc đưa sinh viên về Hà Nội (đóng ở Cổ Nhuế) để mời các nhà văn đến
nói chuyện, tôi có được nhờ tiếp khách hộ. Tôi thấy Xuân Diệu rất thích uống
bia và húp trứng sống. Anh còn nói, tối nào, cần viết một cái gì thì buổi chiều
thế nào cũng phải mua ba lạng thịt chó để bồi dưỡng. Có thế mới có sức viết
(Xuân Diệu chết vì bị nhồi máu cơ tim, tức là máu nhiễm mỡ, cần kiêng ăn nhiều
thịt, trứng. Khi anh mất, Vũ Tú Nam nói, Xuân Diệu đã bồi dưỡng nhầm là vì
thế). Huy Cận cũng vậy. Phải nói là tham ăn.
Nhưng điều rất vui là,
tuy cùng ăn khoẻ mà Huy Cận thì được khen là bình dân, còn Xuân Diệu thì bị chê
là tham ăn. Nguyễn Khải thấy như thế, khi tháp tùng hai cây bút đàn anh này vào
tham quan Nam Ngạn, Hàm Rồng, mừng thành tích bắn máy bay Mỹ (năm 1965). Họ
chiêu đãi các vị. Quan ăn tham (Huy Cận) thì gọi là bình dân, còn dân (Xuân
Diệu) thì gọi là tham ăn. Đúng là một dân tộc chỉ trọng quan lại.
Hai ông bạn còn có chỗ
này cũng giống nhau: có ý thức giữ đầy đủ những bản thảo các tập thơ làm trước
cách mạng tháng Tám. Giữ nguyên cả những bản nháp từng bài một. Một bài thơ có
thể có tới ba bốn bản nháp, từ bản này sang bản khác, sửa chữa thế nào cho đến
bản cuối cùng khi bài thơ được hoàn thiện. Chẳng hạn như bài Nguyệt Cầm của
Xuân Diệu (lúc đầu đặt tên là Đàn trong trăng sáng). Trước khi trở thành một
thi phẩm tuyệt tác mà ta đều biết, bài thơ đã trải qua nhiều bản nháp, trong đó
có những câu còn rất thô sơ vụng về như:
Nhỏ giọt vào trăng, đêm
thuỷ tinh.
Linh lung bóng sáng bỗng
run mình
Vì nghe tới đoạn giai
nhân chết
Xanh ngắt không mây
nguyệt một mình.
Riêng câu kết, có tơi
bốn lần nháp khác nhau:
… Đàn ơi, người đẹp đến
tê mê … Thôi mà! âm nhạc giết tôi đi! … Dịu dàng âm nhạc giết tôi đi!
… Đàn ơi! Âm nhạc giết
ta đi!
Cuối cùng mới tới được
câu kết tuyệt vời này: Nghe sầu âm nhạc đến sao Khuê.
Tài liệu này rất quý. Từ
những bản nháp này, có thể nghiên cứu viết được những công trình khoa học rất
hay về ngôn ngữ thơ ca, về lao động nghệ thuật… Xuân Diệu sẵn sàng cho tôi
mượn. Rất tiếc hồi ầy chưa có photocopy dễ dàng như sau này. Chép tay thì biết
đến bao giờ, nhất là lại chép cả những chỗ dập dập xoá xoá, viết đi, viết lại,
rất ngại.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét