Trích Chương XIII – Hồi ký Nguyễn Đăng Mạnh
Văn học có cái rất vui là phong cách, cách nói, cách quan niệm về nghệ thuật khác nhau. Anh giảng dạy lại không đi vào đấy, chỉ nói về nội dung, về tư tưởng nên trở thành nhạt nhẽo vô duyên. Tại anh thôi, cái chỗ phong phú nhất, vui nhất, “xôm” nhất anh lại đếch đi vào nên người ta chán”. Như đã nói, lúc này tôi đang làm Tuyển tập Vũ Trọng Phụng (1986). Vì thế tôi thử dò ý xem Nguyễn Tuân có muốn viết gì cho tuyển tập này không. Ông lắc đầu nói, giờ không viết gì được nữa.
Tôi nói có ý định làm
một cuốn sách gọi là “Việt Nam, đất nước, phong tục, con người qua các trang
văn của Nguyễn Tuân”. Ông tán thành và nói cứ làm đi.
Tôi lại hỏi ông, vì sao
Tờ hoa bị phê phán? Ông Hoài Thanh, anh Chế Lan Viên cho là ông ám chỉ sai lầm
của cải cách ruộng đất?
Nguyễn Tuân nói: Vì ông
Trường Chinh không thích nên tất nhiên là họ cũng không thích. Tôi gợi ý:
– Tờ hoa chỉ có cái chi
tiết con ong bị đập, nó đốt lại thế thôi.
Nguyễn Tuân nói:
– ờ. Còn cái này nữa:
con bướm – Con bướm cánh phấn sặc sỡ, đẹp như những khẩu hiệu. Nhưng mà chả ai
nói đến mật bướm cả. Còn con ong nó rất hiền, nhưng đập nó, trêu ghẹo nó thì nó
mới đốt cho.
Ông Trường Chinh không
thích. Ông ấy nói với tôi như thế ở một cuộc hội nghị văn nghệ gì đó trước giờ
khai mạc. Ông ấy và tôi cùng ngồi chủ tịch đoàn. Ông ấy nói: “Đả thằng phi công
Mỹ thì anh viết mới được, nhưng tôi không thích bàiTờ hoa của anh”.
Tiếp xúc nhiều với
Nguyễn Tuân, tôi thấy ông không nói yêu ai, mến ai bao giờ. Điều này trái hẳn
với Xuân Diệu. Qua các bài viết của ông, tôi biết ông rất quý Ngô Tất Tố,
Nguyễn Huy Tưởng, Nguyên Hồng, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Nguyễn Văn Bổng, Lý Hải
Châu… Quý nhưng không thích nói ra miệng. Theo anh Lý Hải Châu, ông cũng rất quý
bác sĩ Trần Hữu Tước. Khi Trần Hữu Tước mất, ông nói: “Sao những người tử tế
thì chết, mà mấy thằng đểu giả mất dạy thì cứ sống mãi!”.
Nguyễn Tuân đặc biệt rất
quý Nguyên Hồng. Hôm làm lễ truy điệu Nguyên Hồng ở Hà Nội (ngày 11 – 8 – 1982,
tại 51 Trần Hưng Đạo), tôi được chứng kiến tận mắt Nguyễn Tuân thương tiếc
Nguyên Hồng như thế nào. Từ hàng ghế quãng giữa hội trường, ông chống gậy
lọm khọm đi lên phía sân khấu. Ông khóc mãi không nói được.
Một lúc sau mới chậm rãi
thuật lại một số kỉ niệm của ông với Nguyên Hồng. Ông kể lại cái lần gặp Nguyên
Hồng trên một chuyến tàu Hà Nội – Nam Định. Nguyên Hồng được phóng thích từ
Căng Bắc-Mê ra, còn ông thì bị đưa ra đối chất với một số người bị bắt rồi cũng
sẽ bị đưa đi tù. Một người ra tù, một người vào tù. Ông nói với Nguyên
Hồng: “Anh là người chuyên tô tượng đúc chuông, còn tôi thì chuyên phá đình phá
chùa”.
Cả hai cùng đi tù. Chi
tiết này mấy anh ở Liên Xô không hiểu: sao khác quan điểm mà đều bị tù? Tôi có
đưa chi tiết này vào bài tựa viết cho tập truyện ngắn của Nguyên Hồng in ở Liên
Xô. Chính cái chuyện viết bài tựa này cũng là một kỉ niệm khó quên. Ông nói:
“Hôm ấy tôi hứa viết xong bài, nhưng rồi lỡ hẹn. Bẩy giờ sáng, anh con trai
Simonov dựng tôi dậy, bắt ra xe đến chỗ làm việc. Anh ta nói: “Chúng ta chỉ đi
ăn trưa khi nào viết xong bài tựa”. Cách làm việc như sau: Tôi nói, một người
dịch, một người đánh máy. Vì Nguyên Hồng mà lần đầu tiên tôi phải làm việc như
thế đấy.”
Ông nói tiếp về Nguyên
Hồng: “Người ta có bốn cái khổ: sinh, lão, bệnh, tử. Nguyên Hồng bỏ qua hai
khâu lão, bệnh, đi thẳng từ sinh đến tử. Ai dám bảo Nguyên Hồng là lão. Văn còn
trẻ lắm!
Trước khi giác ngộ cộng
sản, Nguyên Hồng theo đạo. Anh tin thiên đường ở trên trời, dưới đất chỉ có khổ
não và tội lỗi. Sau này giác ngộ cách mạng, anh biết thiên đường có thể có trên
mặt đất này. Nói đến đấy, ông dừng lại và bỗng hô to: “Hồng ơi! Hãy yên nghỉ!
Hồng ơi! Hãy yên nghỉ”. Ông vừa nói vừa khóc.
Nguyễn Tuân cũng rất quý
Ngô Tất Tố. Ông đã viết một bài ca ngợi hết lời tiểu thuyết Tắt đèn và nhận
đóng vai Chánh tổng trong phim Chị Dậu. Theo Nguyên Ngọc, Nguyễn Tuân đóng phim
Chị Dậu chẳng qua vì có tình với Ngô Tất Tố. Lúc ấy ông yếu lắm. Tuy chỉ đóng
một thoáng thôi, nhưng phải đi ngựa (phim quay ở đình Đồng Kỵ). Đêm trước ông
bị sốt. May, sáng hôm sau khỏi, ông lại uống rượu rất vui.
Nguyễn Tuân cũng rất quý
Lý Hải Châu. Hồi làm giám đốc Nhà Xuất bản Văn học, Lý Hải Châu đã đấu tranh
cho việc làm Tuyển tập Nguyễn Tuân, Xuân Diệu… Anh Châu làm tình báo cách mạng
từ trước 1945, đã từng bị thực dân kết án tử hình. Anh là một trí thức rất có
bản lĩnh. Tôi nhớ khi Tuyển tập Nguyễn Tuân được xuất bản, Nguyễn Tuân nói:
“Không có Lý Hải Châu thì không thể có Tuyển tập Nguyễn Tuân”.
Nguyễn Tuân cũng có cảm
tình với Nguyễn Văn Bổng và Hoàng Phủ Ngọc Tường. Ông khen Hoàng Phủ Ngọc Tường
viết được, có văn hoá. Nguyễn Tuân cũng rất quý ĐTM. Nhưng ông không đánh giá
cao ĐTM về tư cách nhà văn. Hồi ông vào Đại học Sư phạm Vinh sơ tán ở Thạch
Thành, Thanh Hoá, ông nói với tôi: “Anh ĐTM là người tôi rất quý. Nhưng nếu có
ai hỏi, ĐTM có những tác phẩm gì, thì tôi lúng túng quá!”. Tôi để ý thấy Nguyễn
Tuân tỏ ra rất thích thú câu tâm sự rất riêng này của ĐTM vì ông nhắc lại với
tôi hai lần: “Tôi là thằng đàn ông biết độc có một cái l”. (ĐTM nói tiếng Pháp:
je suis un homme d’ un seul vagin). Nguyễn Tuân nói xong cười thích thú, cuống
mũi nhăn lại, cái mũi đã to, càng to hơn trên bộ ria Hoa Kỳ rất Nguyễn Tuân.
Đối với Tố Hữu, một mặt
ông không quên cái việc nhà thơ đã đánh giá cao uy tín của ông đối với giới văn
nghệ. Sau cách mạng tháng Tám, được Đảng gọi ra Hà Nội lãnh đạo văn nghệ, người
đầu tiên Tố Hữu thấy cần phải gặp là Nguyễn Tuân và đến năm 1948 thì đưa ông
lên làm tổng thư ký Hội Văn nghệ Việt Nam. Ngoài ra Tố Hữu cũng là người giới
thiệu ông vào Đảng. Dù sao ông cũng không quên thiện ý ấy. Vì có lần tôi hỏi
ông về Tố Hữu, ông nói: “Tố Hữu là người đỡ đầu cho tôi về tư tưởng” (ông nói
tiếng Pháp: parrain idéologique). Và trong liền mấy năm, cứ vào dịp đầu xuân,
ông lại gửi cho Tố Hữu một cái thiếp chúc tết (bonne année) có in nghiêng một
cành hoa tím (Tố Hữu có làm một bài thơ gọi là Hoa tím tặng Nguyễn Tuân in trong tập Gió lộng). Nhưng về sau, bẵng
đi, Nguyễn Tuân không gửi nữa. Tố Hữu buồn lắm, nhờ Hà Xuân Trường hỏi xem. Hà
Xuân Trường nhờ Hoàng Ngọc Hiến. Nhưng Hiến ít có liên hệ với Nguyễn Tuân nên
lại nhờ tôi. Rất tiếc là tôi quên mất.
Đầu năm 1987 (1.1.1987),
trong một cuộc liên hoan nhẹ ở Nhà xuất bản Tác phẩm mới (65 Nguyễn Du), tôi có
được dự, Nguyễn Tuân kể chuyện vừa đến thăm Tố Hữu (lúc này Tố Hữu đã mất hết
mọi chức vụ). Ông nói: “Văn bây giờ chỉ viết về tương lai hay quá khứ thôi.
Hiện tại không viết. Chỉ viết cái lẽ ra nên như thế. Vì thế không thấy cái xấu,
chỉ thấy cái tốt. Chỉ viết toàn cái tốt là không tốt. Tôi nói thế với anh Lành,
anh ấy cũng tán thành. Ông Tố Hữu phải có một phen bị quật hẳn xuống như thế
ông ấy mới tỉnh ra, ông ấy phải rơi xuống như bọn mình thì mới thấy khác. Hôm
tôi đến thăm, ông ấy mừng lắm, vui lắm, tiễn tôi mãi ra xa. Tôi xua tay bảo ông
về và hỏi: “Cây táo của anh còn không? Cây táo ông Lành còn không? Cho tôi xin
mấy quả. Người ta nói cây táo có ma nên không có quả?”. Tố Hữu cười một cách
đau khổ – Nguyễn Tuân nhận xét một cách hóm hỉnh.
Nguyễn Tuân yêu ai, quý
ai thì không thích nói ra, nhưng ghét ai thì nói thẳng, nói công khai, không
chút dè dặt. Mà đã ghét thì thường phát ra những câu rất ác.
Những người ông ghét khá
nhiều. Theo tôi được biết, ấy là : Như Phong, Chế Lan Viên, Hoàng Trung Thông,
Phùng Bảo Thạch, Hoài Thanh, Vũ Đình Liên, Vũ Ngọc Phan, Bùi Huy Phồn, Vũ Đức
Phúc, Nam Mộc, Phan Cự Đệ, Anh Thơ, Huy Cận, Hoàng Văn Hoan, Trường Chinh…
Nhưng theo tôi, chỉ kể
trong số người viết văn, ông ghét nhất ba người: Như Phong, Hoàng Trung Thông
và Chế Lan Viên. Như Phong chết rồi, ông còn gọi là thằng mặt lợn.
Ông ghét Hoàng Trung
Thông kể ra cũng dễ hiểu. Thông có thời gian làm Vụ trưởng Vụ Nghệ thuật và
từng quy chụp chính trị nhiều tác phẩm của Nguyễn Tuân.
Tôi đã chứng kiến Nguyễn
Tuân nổi nóng và đã chửi Hoàng Trung Thông như thế nào khi tôi tìm được nguyên
bản Bữa rượu máu để đưa vào
Tuyển tập Nguyễn Tuân.
Vào năm 1973, tôi từng
được nghe Hoàng Trung Thông và Lưu Quý Kỳ nói chuyện về một hiện tượng mà các
anh gọi là luồng gió đen hay luồng gió độc gì đó thổi vào nền văn học miền Bắc
nước ta, trong đó có những bài Tình rừng, Giò lụa… của Nguyễn Tuân.
Nhưng Hoàng Trung Thông
vẫn phục tài Nguyễn Tuân. Và khi về già, cũng muốn có mối quan hệ tốt với ông.
Năm 1986, Thông đăng trên Văn nghệ bài “Anh Nguyễn Tuân”, một bài thuộc loại
chân dung văn học. Thông lấy làm đắc ý lắm. Anh nói với tôi: “Anh là nhà nghiên
cứu, anh viết khác. Tôi là người sáng tác, tôi viết khác”.
Tôi chắc Hoàng Trung
Thông nghĩ rằng bài ấy Nguyễn Tuân có xem và không ghét mình nữa, nên Tết năm
ấy (1987) anh bảo con đèo đến chúc Tết Nguyễn Tuân. Chẳng ngờ Nguyễn Tuân không
tiếp.
Nghe nói Hoàng Trung
Thông đã khóc.
Biết chuyện này, tôi bèn
tìm đọc bài viết của Hoàng Trung Thông xem thế nào. Tôi thấy viết như thế
Nguyễn Tuân ghét là phải. Đại khái bài viết có những câu như thế này: Anh nói
Thiếu quê hương,”song chúng ta làm gì mà phải đến nỗi thiếu quê hương”, “có
những lúc tưởng như anh xa rời Đảng, rồi anh lại gắn chặt với Đảng. Vì anh biết
rằng anh không thể xa rời Đảng được”, “Anh đã viết Tình rừng, dẫu rằng những
bài văn đó có đôi chỗ sai sót, nhưng trong đó vẫn đầy rẫy những tâm tình về
sông nước, con người”, “Tôi biết có lúc Nguyễn loạng choạng, nghiêng ngả. Nhưng
khi anh vịn vào từng câu, từng trang văn, anh đứng thẳng dậy, rồi anh đi, đi
đàng hoàng và có lúc đi nghênh ngang nữa để cùng với những bạn văn của mình đi
đến đỉnh cao của văn chương Việt Nam”…
Đúng là có giọng tuyên
huấn! Vẫn viết theo giọng tuyên huấn! Ngoài ra, Nguyễn Tuân còn ghét điều này
nữa ở bài viết ấy: nguyên là ngày xưa, có một lần Nguyễn Tuân, Hoàng Trung
Thông về Đông Anh cùng với vợ chồng Nguyễn Hồng Phong – Ngọc Trai. Phong quê ở
Đông Anh. Đêm ấy họ đi xem một đoàn cải lương Nam Bộ biểu diễn vở gì đó ở bên
cạnh thành Cổ Loa. Nguyễn Tuân nhớ gần đó có làng Quậy – rượu Quậy rất ngon –
quê một đào hát ông đã quen rất lâu. Họ bèn đến hỏi thăm thì được biết cô đào
ấy đã thắt cổ tự tử rồi vì bị quy là phản động gì đó trong cải cách ruộng đất.
Buồn quá! Họ uống rượu, rượu rất ngon, đúng là rượu Quậy. Nguyễn Tuân vừa uống
vừa khóc, vừa hát đi hát lại bài hát rất buồn của Đặng Thế Phong: “Ngoài hiên
giọt mưa thu thánh thót rơi…”
Trong bài viết của mình,
Hoàng Trung Thông có đưa chuyện này vào. Nhưng Nguyễn Tuân cho là anh đã diễn
đạt không đúng tâm sự của mình lúc ấy nên càng ghét: “Mình buồn cho những kiếp
người chịu oan khuất, buồn cho đời. Nó lại viết như mình khóc nhân tình vậy” –
Chị Ngọc Trai nói lại với tôi như thế.
Nguyễn Tuân cũng rất
ghét Chế Lan Viên.
Một lần tôi đến Xuân
Diệu. Xuân Diệu bảo tôi: “Mình nghe nói Nguyễn Tuân vừa phát biểu một câu rất
hay về Chế Lan Viên”. Và anh nhắc lại cho tôi nghe cái câu rất ác ấy. Nhưng tôi
muốn biết đích xác câu nói ấy từ chính miệng Nguyễn Tuân kia, nên tìm đến ông.
Tôi gạ chuyện: “Vừa rồi anh Xuân Diệu cho tôi biết bác có nói một câu gì đó rất
hay về Chế Lan Viên”. Nguyễn Tuân ngẫm nghĩ một lát rồi nói: “Cái anh Xuân Diệu
từ ngày vợ bỏ đến giờ có khá hơn” (Cho đến nay tôi vẫn không hiểu ý nghĩa của
câu nói đó. Khá hơn là thế nào? Tại sao vợ bỏ lại khá hơn?
Nguyễn Tuân nói tiếp:
“Có hai chữ thi nhân và thi sĩ. Tôi thích chữ thi nhân hơn. Thi sĩ là chỉ ra
anh có nghề làm thơ. Còn thi nhân thì sang và đẹp từ bản chất con người. Chế
Lan Viên không đáng gọi là thi nhân. Thi sĩ thì có thể được bao nhiêu phần trăm
đấy”. Như thế nghĩa là, theo Nguyễn Tuân, Chế Lan Viên cũng chưa được coi là
thi sĩ trăm phần trăm.
Ông tiếp tục: “Một hôm
tôi đi vào phòng văn thư của Hội nhà văn. Tôi đi vào đúng lúc Chế Lan Viên đi
ra. Hình như anh ta đến để lấy vé máy bay đi vào Sài Gòn. Anh giơ tay bắt tay
tôi. Tôi không bắt. Chế Lan Viên ra rồi, các cô văn thư hỏi tôi: “Sao bác không
bắt tay anh ấy? Tôi hỏi lại: “Thế các vị có biết vì sao có tục bắt tay không?
Các cô không biết. Tôi nói: Ngày xưa ở phương Tây, hai người tin cậy nhau,
không mang theo vũ khí, họ bắt tay nhau. Tôi không bắt tay anh Chế Lan Viên vì
anh ấy trong người có hàng bồ dao găm”. Ông lại nói tiếp một chuyện khác: “Anh
Chế Lan Viên ở trong Nam bắn tin ra ngoài này cho tôi, không hiểu sao, anh
Nguyễn Tuân cứ thấy tôi là lảng tránh không muốn gặp. Hôm ấy họp chi bộ, tôi
nói với cô Lê Minh là bí thư: “Cô ghi lại rồi bắn tin cho anh Chế Lan Viên hộ
tôi: “Đúng là tôi tránh mặt anh ấy thật. Lý do là tôi đã già rồi. Người già
tính khí bất thường. Tôi sợ gặp anh ấy, lỡ tôi nổi nóng lên, tát cho anh ấy một
cái thì làm thế nào. Đồng chí với nhau mà tát nhau thì phải kiểm điểm thôi”.
Nguyễn Tuân ghét Vũ Ngọc
Phan vì, cũng giống như Vũ Đình Liên, vốn xưa sống khuôn phép như một anh viên
chức, thế mà bây giờ cứ nói là hồi Pháp thuộc mình cũng chơi bời dữ lắm (Tô
Hoài cho là Vũ Ngọc Phan không dám chơi bời vì sợ Hằng Phương). Tô Hoài còn cho
biết một lý do khác: ngày trước túng tiền, Nguyễn Tuân thường đến vay Vũ Ngọc
Phan nhưng từ khi đi tù về (khoảng 1941, 1942, Nguyễn Tuân bị bắt giam ở Căng
Nho Quan), Phan không cho vay nữa. Nguyễn Tuân sai con trai là Toản đến vay, Vũ
Ngọc Phan từ chối. “Nó sợ liên quan đến thằng tù dây đây mà!” – Nguyễn Tuân nói
thế. Ông cũng rất ghét Phùng Bảo Thạch. Thạch chết, Nguyễn Tuân không đến
viếng. Thạch là tay thân Nhật, Nguyễn Tuân cho ẩn náu ở nhà riêng tại Ngã tư Sở
(ông gọi là Am Sông Tô). Vậy mà Thạch đã làm cho ông bị tù. Vì chứa Thạch nên
cũng bị coi là thân Nhật. Thạch bị bắt, bị tra hỏi, đã khai là Nguyễn Tuân đang
nằm ở xóm hát Khâm Thiên và đưa mật thám đến bắt. Nguyễn Tuân vừa buông màn ngủ
thì bị gọi dậy, còng tay luôn.
Ông cũng không ưa Phan
Cự Đệ. Có lần ông nói với tôi: “Nghe nói anh Phan Cự Đệ làm Tuyển tập Nguyên
Hồng, tôi buồn quá!”.
Hoài Thanh cũng bị nhiều
nhà văn không ưa. Nguyễn Tuân cũng vậy. Ông gọi Hoài Thanh là thằng nịnh. Hồi
Hoài Thanh ốm nặng, Nguyễn Tuân nói, tôi định đến thăm Hoài Thanh để nhắc lại
lời ông ta nói khi đi Trung Quốc về: Mao Trạch Đông có một cái nốt ruồi rất lớn
ở cằm, đúng là tướng đế vương.
Còn Anh Thơ thì Tô Hoài
kể chuyện này. Một lần Nguyễn Tuân và Anh Thơ cùng đi công tác ở Lai Châu. Hồi
ấy không sẵn khách sạn như sau này, còn hoang vu lắm. Lại vào lúc mưa to gió
lớn. Người ta kiếm được một cái phòng đưa hai người vào nghỉ. Tất nhiên mỗi
người một giường. Nhưng Anh Thơ nhất định không chịu, vì sợ… Nguyễn Tuân.
Nguyễn Tuân rất bực và chắc cũng ngượng nữa. Khi về Hà Nội, gặp lại trong một
cuộc họp, Nguyễn Tuân nói vào mặt Anh Thơ: “Bà làm như tôi chực hiếp bà hay
sao!”.
Còn Nam Mộc? Nam Mộc
từng viết một bài về tập Tuỳ bút Sông Đà của Nguyễn Tuân. Tay này có
vết về chính trị nên lên gân lên cốt ghê lắm. Nam Mộc phê Nguyễn Tuân trong
Sông Đà là “ngựa quen đường cũ”, chưa dứt bỏ được những căn bệnh cũ như chủ
nghĩa xê dịch, tư tưởng hoài cổ, rồi nào là buồn rớt, nhắm nháp thiên nhiên…
Tôi chắc Nguyễn Tuân ghét Nam Mộc lắm nên có lần nói với tôi: “Thằng cha Nam
Mộc, vợ nó bỏ là phải lắm!”. Ngoài ra có chuyện này nữa, nhiều người biết: một
lần kia, Nguyễn Tuân bệnh nặng phải cấp cứu ở bệnh viện Việt Xô. Người ta đưa
ông vào một phòng bệnh, đã có Nam Mộc ở đó. Nguyễn Tuân không chịu ở chung với
Nam Mộc, nhất quyết từ chối không vào: “Hoặc tôi đi chỗ khác, hoặc Nam Mộc phải
đi”. Bệnh viện đành phải giải quyết theo nguyện vọng của ông. Có một điều này,
cho đến nay, tôi vẫn chưa hiểu được: gia đình Nguyễn Tuân ngày xưa ở Thanh Hoá
rất lâu. Cụ Tú Lan làm việc ở Toà sứ Thanh Hoá rồi nghỉ hưu luôn ở đó. Nguyễn
Tuân có thời gian bị giam giữ, quản thúc ở Thanh Hoá. Có lúc làm thư ký ở nhà
máy đèn, đồng thời làm thông tín viên cho báo Trung Bắc Tân Văn thường trú ở
Thanh Hoá. Viết văn, ông thường ghi nơi viết là Thang Mộc ấp, tức Thanh Hoá gọi
theo địa danh thời phong kiến.
Ấy thế mà có lần tôi
thấy ông xử quá tệ với Thanh Hoá. Một hôm có mấy anh ở Nhà xuất bản Thanh Hoá
đánh xe ra Hà Nội thăm Nguyễn Tuân. Họ đến Hoàng Ngọc Hiến nhờ đưa đi. Hiến
chưa đến Nguyễn Tuân bao giờ, giới thiệu tôi thay anh.
Tôi đi cùng với họ đến
trước nhà Nguyễn Tuân ở 90 Trần Hưng Đạo. Tôi bảo xe đỗ ngoài đường đợi tôi vào
xem ông có nhà không. Tôi thấy ông đang ngồi một mình ở phòng riêng. Tôi nói:
“Có mấy anh ở Nhà xuất bản Thanh Hoá muốn đến thăm bác. Họ đang đợi dưới kia.
Ông xua tay: “Thôi anh bảo họ về, tôi cám ơn”. Tôi nài thêm: “Họ có rượu ngon
muốn biếu bác”. Ông nói: “Tôi có rượu rồi, cám ơn”. Tôi lại nài thêm một
lần nữa: “Họ nói muốn xin bác cho in lại những bài bác viết về Thanh Hoá”. Ông
vẫn một mực từ chối “Được, anh cứ bảo họ, tôi đồng ý. Thôi bảo họ về đi”.
Người ta đánh xe từ
Thanh Hoá ra thăm mà nhất định không tiếp. Rất lạ.
Sau này Tô Hoài cho tôi
biết, ông rất ghét Thanh Hoá. Ngày xưa ông viết truyện Đôi tri kỷ gượng, giễu cợt lối văn
bằng phẳng, thiếu cá tính của một nhân vật tên là Mợi. Mợi là của Thanh
Châu, người Thanh Hoá. Nhưng Thanh Châu thì có liên quan gì đến Nhà Xuất bản
Thanh Hoá?Nhân dịp tác phẩm Vỡ đê của Vũ Trọng Phụng được tái bản, vợ
chồng Sơn- Hằng (Hằng là con gái, Sơn là con rể Vũ Trọng Phụng), tổ chức một
cuộc liên hoan ăn mừng tại nhà riêng ở Mọc Giáp Nhất (ngày 23.01.1983). Rất
nhiều nhà văn được mời tới dự: Nguyễn Tuân, Tô Hoài, Bùi Huy Phồn, Lưu Trọng Lư
và vợ con (vợ lạc đường không đến được), Như Phong, Hoàng Trung Thông, Ông Lưu,
nhà nhiếp ảnh từng quen biết Vũ Trọng Phụng. Bà Tuệ, vợ Nguyễn Tuân, hàng năm
đều có đi viếng mộ cụ Tú Lan, nhân tiện cũng viếng mộ Vũ Trọng Phụng ở gần đấy.
Vì thế cũng đến dự liên hoan.
Trong khi chờ đợi dọn
tiệc, người ngồi trong nhà, người ở ngoài sân trò chuyện với nhau.
Nguyễn Tuân nói chuyện
với tôi và Bùi Huy Phồn ở ngoài sân. Ông nói, lẽ ra kỷ niệm Vũ Trọng Phụng 70
tuổi tổ chức năm 1982, mọi người đã đồng ý cả, nhưng Hoàng Trung Thông, Hoàng
Trinh, Phong Lê, Vũ Đức Phúc phản đối.
Nguyễn Tuân hỏi: “Phong
Lê là thằng nào, tên thật là gì, tướng gian ác có lộ ra mặt không, có phải dân
Nghệ không ? Vũ Đức Phúc, Phong Lê, Như Phong đúng là cùng một băng đảng với
nhau.”
Tôi ngỏ ý mời Nguyễn
Tuân đến nói chuyện với học viên sau đại học. Ông nói, ngại đăng đàn diễn
thuyết lắm, sẽ trả lời sau, nhưng không hứa hẹn gì.
Ông nói với Đồ Phồn, lát
nữa chỉ dự ăn một lát rồi xin về sớm, vì còn mấy đám cưới phải đi. Vả lại sợ
rượu vào nói cà khịa, phiền: “Không phải sợ nói sai mà sợ nói đúng mới gay go.
Mình là loại quý tộc lọt lưới mà!”.
Nguyễn Tuân nhìn bao
quát ngôi nhà của vợ chồng Sơn – Hằng, chê kiến trúc không ra gì. Ông cười nói:
“Đã lâu không đánh nhau với ai đâm ngứa ngáy, lại cà khịa với cái nhà này”.
Tôi hỏi thăm Nguyễn Tuân
về sức khoẻ. Ông nói, chả biết trả lời ra sao. Già rồi, khoẻ yếu không biết thế
nào. Hỏi thế cứ như là nhạo, là chế giễu. Phải hỏi như hỏi những ông thủ trưởng
chứ: “Anh có khoẻ không ạ!”. Bùi Huy Phồn hỏi về chuyện bà Chu Thị Năm (Chủ cô đầu
ngày xưa, bồ của Nguyễn Tuân). Nguyễn Tuân nói: “ấy… có bà ấy kia (bà Tuệ, vợ
Nguyễn Tuân), ông hỏi thế phiền lắm. Bà Tuệ nói: “Không, ngày xưa bà Năm đến
chơi, tôi vẫn tiếp bình thường”. Nguyễn Tuân chỉ bà Tuệ: “Những cái cách mạng
cho tôi được hưởng không nhiều lắm. Được hưởng nhiều là bà này này!”.
Tô Hoài đến góp chuyện.
Tôi hỏi anh đang viết gì. Anh nói, sắp in một tiểu thuyết feuilletion cho Thiếu
niên tiền phong về loài chim. Viết để cho thiếu nhi biết về loài chim, nó sinh
hoạt, làm tổ, đẻ con, nuôi con như thế nào. Mình có một cái vốn như thế, không
viết, phí.
Tô Hoài nói riêng với
tôi, vì có mặt Lưu Trọng Lư: “Người ta viết có thời, tài có thời, hồn thơ có
thời, có một lúc nào đó thôi. Như ông Lư ngày xưa làm thơ mới thì chân thật, có
hồn thơ, sau này tôi cho chẳng còn nữa. Nhiều người như thế.
Còn viết văn học sử thì
không phải cứ có tài liệu nhiều mà đủ. Phải viết có hồn. Có tài liệu và có hồn.
Anh Đệ, anh Đức có tài liệu mà viết không có hồn. Anh (Mạnh) viết vừa có tài
liệu vừa có hồn. Còn bọn mới thì chả có tài liệu gì, cứ phóng ý ra thôi”.
Nguyễn Tuân bỗng xoay ra
nói về Hoàng Văn Hoan: “Hoàng Văn Hoan có viết một bài tiểu luận về Vũ Trọng
Phụng, hình như gửi cho báo Nhân dân. Tôi có đọc rồi để đâu, tìm mãi chưa thấy.
Đúng là lưới trời lồng lộng thật. Nó chửi Kiều là ăn cắp của Tầu và cho đề cao
Kiều là đề cao con đĩ. Đấy là một tội. Tội thứ hai là nói Vũ Trọng Phụng cũng
viết về đĩ. Bây giờ ai là đĩ ? Chính nó là con đĩ. Nhưng nó chết thì lại có
thằng Hoàng Văn Hoan khác. Có những thằng Hoàng Văn Hoan ở Hà Nội này, khối ra
đấy, lại có chức có quyền nữa cơ chứ!”.
Như Phong đến góp
chuyện, nói năm 1937, hai mươi tuổi, có đến nhà Nguyễn Tuân ở Thanh Hoá. Rồi
ông nhắc đến bài thơ của Nguyễn Vỹ ví nhà văn Annam khổ như chó. Nguyễn Tuân
cười nói: “Bây giờ nên sửa lại là nhà văn Việt Nam khổ như sư tử, sư tử bị bẻ
hết vuốt, hết móng”. Rồi ông chuyển luôn sang giọng tâm tình: “Ngày xưa, nhà
văn có tình với nhau lắm, hơn bây giờ. Cái đêm trước ngày đưa ma Phụng, không
ai ngủ được. Cánh ở Gia Quất, cánh ở nhà chú Trô phố … không ai ngủ được”.
Tôi nói với Nguyễn Tuân:
“Bài Một đêm họp đưa ma Phụng bác viết rất hay”. Ông nói: “Bây giờ
không viết được như thế nữa”.
Các mâm cơm dọn ra. Như
Phong, Nguyễn Tuân, Hoàng Trung Thông, Lưu Trọng Lư ngồi một mâm, vừa nói
chuyện vui, vừa khích bác lẫn nhau. Hoàng Trung Thông nói không tán thành lời
bình của Nguyễn Tuân về câu thơ Kiều: “Bóng trăng đã xế, hoa lê lại gần”.
Nguyễn Tuân nói: “Cái đó tuỳ ý mọi người chứ, tôi không theo ai cả”.
Bỗng nhiên thấy Lưu
Trọng Lư đùng đùng bỏ ra về. Hình như là do Như Phong khen Nguyễn Vỹ thế nào
đó. Lưu Trọng Lư chạnh lòng, vì do Nguyễn Vỹ mà Lưu Trọng Lư bị mang tiếng là
ăn cắp thơ của Nhật (Bài Tiếng thu).
Lưu Trọng Lư nhất quyết
bỏ về, bắt con không ăn nữa, đưa bố về ngay.
Hôm
ấy chụp rất nhiều ảnh kỷ niệm.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét