Trích Chương IX – Hồi ký Nguyễn Đăng Mạnh - (Tiếp theo phần 4)
Ngày 14 – 2 – 1982, 24
Điện Biên.
Trong lần gặp này, Xuân Diệu nói nhiều chuyện rất tỉ mỉ về thời thơ ấu, thời học sinh của anh. Anh nói: “Về tuổi thơ ấu, tôi chỉ mới nói một chút. Phong phú lắm. Tôi chưa viết hồi kí. Rất cần tự mình phân tích những kỉ niệm tuổi thơ, rất có ích cho những thế hệ sau. Người ta sống hời hợt lắm, không sống sâu bản thân mình, sống không có ý thức gì. Ta chỉ lo giáo dục tư tưởng. Tư tưởng là lí trí thôi. Phải giáo dục tâm hồn, giáo dục tinh thần nhân văn, nhân bản, humain.
Tại sao chỉ nói bình
thường mà vĩ đại mới quý, bình thường mà sâu cũng quý chứ! Tôi mà chỉ được giáo
dục về tư tưởng thì tôi sẽ là anh hùng, không phải là Xuân Diệu nhà thơ nữa.
Thời thơ ấu của tôi có
biết bao nhiêu chuyện nó luyện cho cái vốn nhân đạo, vốn yêu đời, yêu người,
yêu hoa lá, biển, thiên nhiên… Thuở bé tôi hiền lắm, chả bao giờ dám vùng lên.
Cứ bị cái thằng anh kém hai tuổi nó bắt nạt mà chịu. Tôi có thằng em ruột rất
khổ, tôi đã viết trong Phấn thông vàng. Nó lêu lổng, vagabond, bỏ nhà đi lang
thang. Có một hồi đi phu ở Tây Nguyên. Giờ nó làm báo ở Sài Gòn. Nó viết hồi
ký. Giá Mạnh đọc được thì tốt lắm, hiểu thêm thời thơ ấu của tôi. Nó sống lang
thang, rách rưới như ăn mày, nay gọi là “bụi đời”. Nó đặt tên tập hồi ký là
“Gió cuốn bụi đời”, ngờ đâu lại thành đúng nghĩa bụi đời ta vẫn dùng ngày nay.
Lúc nhỏ tôi ở với má ở
Gò Bồi là chỗ làm nước mắm, trại làm nước mắm của bà ngoại tôi. Sau ở với bố ở
Văn Quang, cách Gò Bồi độ 10 cây số. Thỉnh thoảng tôi có về bà ngoại. Tôi nhớ
dì Bốn. Dì ấy thương tôi lắm. Trông thấy dì ấy chắp nối những vụn nhiễu làm cái
gối mà tôi thấy phong phú màu sắc quá, rất thích.
Về sau khoảng 1939, tôi
và Huy Cận có đến nhà anh Nguyễn Xuân Khoát bói bài Tây. Anh Khoát bói cho tôi,
nói số tôi luôn có “protection des femmes” (được phụ nữ bảo hộ, bảo trợ) . Giờ
tôi muốn tán phụ nữ, nịnh phụ nữ, tôi cứ nói số tôi có “protection des femmes”.
Vì thế tôi được dì Bốn
thương. Lúc dì ấy đi làm giúp cho mợ Mười tôi, xuống đò qua sông, tôi cứ khóc
gọi theo: “Dì đừng bỏ cháu đi lấy chồng!” Thực ra có phải dì ấy đi lấy chồng
đâu.
Tôi có một bà mợ, mợ Năm
gì đấy cũng rất khổ. Một buổi nhà có khách, mợ Năm ra ngoài uống nước hay ăn gì
đó, thế mà bị cậu Năm mắng đuổi vào.
Mợ ấy buồn vì bị mọi
người hắt hủi. Một mợ khác đẻ non rồi chết. Người ta nói tại mợ ấy trông thấy
một cái hoa chuối có trái nhưng cây lại chết nên không thành được buồng chuối.
Mợ ấy đẻ non và chết là vì thế.
Những người phụ nữ ấy
gây ra ở tôi ấn tượng rất tội về nỗi khổ của người đàn bà. Người đàn bà Việt
Nam thời trước khổ lắm. Cái gương mặt của họ nhìn thấy khó, thấy tối thế nào.
Sau ngày giải phóng, tôi có về Plâycu, dì Bốn tôi ở đó. Tôi có làm bài thơ về
dì Bốn in trong Hồn tôi đôi cánh. Tôi định làm một bài về mợ Năm, nhưng chưa
làm xong.
Học xong cấp I, tôi lên
Quy Nhơn học, ở nhà chú tôi. Chú tôi làm thư kí đoan, thuê nhà ông Chín Cược.
Ông Chín Cược giầu lắm. Nhà có vườn rộng. Có cái giếng rất sâu. Có trồng thựơc
dược, hoa to, cánh xoà – “Vàng tươi, thược dược cánh hơi xoà”. Có hoa nhài bờ
giếng. Đêm trăng hoa nhài rất đẹp và thơm. Tôi như sống với những bông nhài.
Tôi cũng thích hoa huệ. Huệ trong Bình Định gọi là lan. Tôi làm thơ về hoa lan,
nhành lan như vút cao, bông hoa như chóng mặt vì ngợp. Sau vì muốn cả nước mọi
miền đều thông cảm được, tôi đổi thành hoa huệ “Nhánh vút làm cho bông huệ
ngợp”. Huệ trong kia không trồng ruộng hàng sào, bán hàng chục dò như ở Bắc.
Tôi thuở bé giỏi trèo
cây lắm. Trong vườn ông Chín Cược có cây ổi, mọc sau cái miếu, bên bờ tường đầy
rêu trơn. Thế mà tôi theo một thằng bạn tập trèo và trèo được. Trèo lên cao
thấy cả một thế giới mới lạ. Có một cành ở xa, có quả, tôi bò ra hái. Cả một
thế giới mở ra với đứa trẻ. Tôi còn trèo me, lấy được trùm me chín cho thím tôi
muối và kho cá trầu, thú vị lắm. Tôi rất mê cải lương. Hồi vào làm việc ở Mỹ
Tho, tôi ở chính quê hương của cải lương, quê của Phùng Há, Năm Phỉ. Năm 1932,
cải lương ra Bắc. Một gánh cải lương thỉnh thoảng ra diễn ở Gò Bồi, tại một cái
chợ nhỏ. Mê lắm! Có một thằng bạn, nhà hiếm, gọi là thằng Chó (tên thật của nó
là Đức) rất có duyên, hát cải lương rất hay. ở Gò Bồi, mỗi nhà có ghe bầu
riêng, bán cá, bán nước mắm. Hàng đắt là do người bán có duyên, khéo nói. Mẹ
thằng Chó là người rất có duyên.
Tôi cũng học hát cải
lương. Có một cái gì ở trong linh hồn của điệu hát nó rất trữ tình, rất lãng
mạn. Hành vân, vọng cổ, tứ đại oán… mê lắm (Anh dừng lại hát cho tôi nghe mấy
câu tứ đại oán). Cải lương là tiếng nói của individu, khi mới ra đời nó có cái
mélancolie, một cái buồn khác cái buồn cũ. Nó là lãng mạn chủ nghĩa, đi trước
Thơ mới, Tự lực văn đoàn. Có cái đau xé. Cái đau đúc lại, cô lại rồi xé ra. Cải
lương có ảnh hưởng đến thơ tôi. Có cái xé lòng. Đúc lại, không thèm buồn. Đúc
lại trước khi nổ ra, vỡ ra. Hồi đi học, tôi là một cây hát trong lớp. Thích
hát. Ai bảo là hát ngay: cải lương, ca Huế, sa mạc, cả hát Tây “J’ai deux
amours”. Nhạc vào thơ tôi ghê lắm. Nhạc mà vẫn giữ ý, giữ lời nói, không âm
nhạc chủ nghĩa.
Tôi có một ông chú người
Nghệ Tĩnh – trong Nam cũng gọi là người Bắc – hát sa mạc, kể sa mạc, tôi mê
lắm. Cứ phải lấy hai hạt thóc nhổ cho ông năm cái râu hay năm sợi tóc sâu mới
được ông hát cho nghe mấy câu sa mạc.
Nói đến đây Xuân Diệu
chuyển giọng nói với tôi như là kết luận cho câu chuyện của mình hôm ấy: “Mạnh
phải tích luỹ cho mình cái vốn nhân bản. Cái đó quyết định nội dung viết của
mình. Còn kiến thức thì cứ tích luỹ, thu nhận dần dần. Cái chính là phải có vốn
nhân bản, cái humanisme, thì sẽ làm ăn được nhiều. Đó là cái vốn để viết lâu
dài.
Tôi không thích giải
thích nhà văn, nhà thơ bằng môi trường. Môi trường không quan trọng gì lắm. Cái
quan trọng là khiếu bẩm sinh, cái chất người của nhà thơ, có cần gì môi trường.
Tại sao bao nhiêu người cùng môi trường mà không phải ai cũng thành nhà thơ?”
Anh tiễn tôi ra cửa. Vừa
đi vừa than phiền: “Bán óc giờ rẻ quá! Mà không ai có tiền mua. Mà mình cũng
chả có gì bán ngoài cái đó. Nhưng thôi, mỗi người sinh ra thế nào, bản chất thế
nào thì cứ thế mà sống thôi. Còn chuyện đời, chuyện chính trị chẳng biết thế
nào, mặc!”.
Ngày 24 – 5 – 1982, 24
Điện Biên
Tôi đến Xuân Diệu đúng
lúc anh tiễn khách ra cổng. Anh nói với tôi: “Nào vào mà nghe người ta khen!
Nguyễn Cao Luyện khen lắm (bài Thương tiếc nhà văn Nguyên Hồng, đăng trên báo
Nhân dân).
Anh vội đưa tôi vào nhà.
Anh bóc bánh bích quy. Pha cà phê. Mời thuốc lá đầu lọc: “Người ta đến tuổi nào
đấy cũng phải có lúc ung dung mà hưởng lạc một chút chứ, ăn miếng ngon, ngắm
bông hoa đẹp. Đời Nguyên Hồng chỉ là một rêve (C’est un mauvais rêve, một ác
mộng!).
Nguyên Hồng là tài và
tâm. Trí thì yếu. Tác phẩm hay hơn cả là gì nhỉ? Những ngày thơ ấu? Nguyên Hồng
chết đột ngột quá – Xuân Diệu lắc đầu, lè lưỡi.
Anh chỉ tập bản thảo
viết dở trên bàn: “Mình viết văn như người bị đòi nợ. Đến hẹn mà không có xu
nào trả. Bụng rỗng không! ấy thế mà rồi cũng viết được đấy. Tập trung suy nghĩ
mãi vào một điểm rồi nó bật ra. Lúc đầu tản mạn linh tinh, tưởng không sao viết
được. Sau tập trung vào một điểm thì viết được.”
Bỗng anh chuyển sang
nhận xét mấy nhà thơ đương thời như Tế Hanh, Lưu Trọng Lư, Giang Nam: “Tế Hanh
cái gì cũng có cả, nhưng chả đọng lại cái gì. Như giao hợp đánh xoạch một cái,
chưa kịp thấy gì, đã mặc quần áo rồi (anh cười to). Lưu Trọng Lư tản mạn quá,
rồi chạy theo tiền để nuôi vợ con.
Đời có những nhân tố rất
tầm thường mà hoá ra chi phối. Do thế mà viết ẩu. Lư yếu vì vợ đẹp, yêu cầu
sinh lý cao. Lư còn sống được như thế là giỏi rồi đấy. Lư quanh quẩn rút lại
chỉ có một mô hình: hát giặm, năm tiếng có vần giữa xen vào. Thế thôi! Khi làm
thơ thất ngôn thì có thay đổi tí chút. Tế Hanh, thơ như là cuộc đời sẵn có cái
gì thì lấy luôn làm câu thơ. Thơ không có xác, có chất, không có gia công sáng
tạo gì cho sâu sắc. Paul Valéry, câu thơ có xương cốt, đứng vững lắm. Anna de
Noailles là giande poétesse, vậy mà câu thơ cũng dàn trải, không vững chãi.
Lamartine cũng thế. Nhà thơ lớn thế mà câu thơ chưa thật kiên cố. Thơ Verlaine
vững lắm. Câu chữ không sao thay thế được, không bỏ được chữ nào. Nhà văn phải
đẻ ra chữ. Câu, chữ là của mình. Mình đẻ ra câu chữ mới là nhà văn thật sự”.
Thơ Thanh Hải còn kém
hơn thơ Giang Nam. Nhưng Giang Nam ngay ở bài hay nhất là bài Quê hương cũng
không có xác. Tình yêu không có xác. Như câu chuyện kể ra thế thôi.
Hàn Mạc Tử đúng là đẻ ra
chữ. Chữ của Hàn Mạc Tử vững chắc lắm, cứ vọt ra. Thơ Tế Hanh như thứ trạm nổi
nông, loại phù điêu. Cái gì cũng có nhưng không sâu sắc, không nổi góc cạnh,
hời hợt, nông choèn, tự nhiên nhĩ nhiên, trời đất, đời sống cho thế nào thì nói
thế, không gia công đào xới, nhào nặn.”
Anh lại trở lại chuyện
đời sống và phàn nàn: “Mình cứ viết hết bài nọ đến bài kia, luôn luôn phải ở
tình trạng phải cố sức. Như hòn bi phải có sức tác động vào mới viết được.
Thành ra lại phải quay ra lo chuyện ăn. Rất mệt! Nhưng mà rất mừng là có một số
người hiểu mình: Huy Cận, Nguyễn Đình Thi, Hoàng Trung Thông, Nguyễn Đăng Mạnh.
Phải tăng cường tìm hiểu nhau, tăng cường tri âm tri kỷ.”
Anh mời tôi uống nước,
hút thuốc lá. Anh nói: “Không phải ai mình cũng mời thế đâu!”. Anh hạ giọng:
“Này chuyện tình với bạn trai ngày xưa của mình, Mạnh có nhận xét đấy, đừng
viết ra làm gì, người ta hiểu sai đi không lợi. Mạnh thân với Hoàng Ngọc Hiến,
lúc nào nói với Hiến phải giữ mồm giữ miệng. Người ta phản ánh đến anh Tố Hữu
rồi đấy. Anh Lành anh ấy biết rồi đấy. Khéo rồi họ lại thắt lại thì chết. Bây
giờ đang có chiều hướng mở ra, khá. Trường hợp Tuyển tập Nguyễn Tuân là thế. Ta
cứ lặng lẽ mà ăn, mà ngoạm từng miếng, nhưng đừng có nhai rau ráu ồn lên làm
gì. Không phải sợ, không phải hèn đâu, nhưng mà không cần phải thế”.
Xuân Diệu lại mời tôi
hút thuốc lá: “Cứ hút đi! Biết rồi đến lúc nào mình không còn nữa để đưa thuốc
lá cho mà hút”.
Anh lại giục làm việc
khẩn trương lên. Cái chết nó thúc đẩy mình. Tôi ra về. Trời mưa. Thấy tôi không
có mũ, anh cho mượn cái mũ lá cũ: “Mũ cũ nhưng đừng vất đi đấy”.
Anh lại lấy cái cặp
nhựa, cặp mép cái túi xách của tôi cho khỏi ướt sách vở bên trong: “Mình như
người vợ chăm sóc chồng. Thế mới biết người đàn bà là cần”.
Ngày 8 – 4 – 1983, 24
Điện Biên.
Xuân Diệu mở cổng. Tôi
nói, lâu quá không gặp anh. Xuân Diệu nói: “Mạnh mà cũng biết sốt ruột kia à?
Tưởng bây giờ đang lên, không thích mình nữa?”. Anh cười: “ấy người ta có cái
ghen chẳng có fondement gì cả như thế đấy!”.
Tôi đến Xuân Diệu sau
khi gặp Lưu Công Nhân ở Sài Gòn.
Tôi hỏi: “Anh có biết
Lưu Công Nhân?”.
Xuân Diệu: “Có biết,
nhưng không thân thiết lắm. Thế hắn sống bằng gì? Có mấy con?”. Tôi nói, không
biết, chỉ thấy giầu lắm. Xuân Diệu: “Cậu đúng là nhà văn lớn, không để ý cái gì
cụ thể cả”.
Tôi lại nói về chuyện
vừa gặp Chế Lan Viên ở Sài Gòn. Xuân Diệu nói: “Chế Lan Viên giờ buồn lắm. Sắc
sảo, thông minh, song trong quan hệ với nhau còn phải có tình người, chứ đâu
chỉ chuyện tìm tòi chân lý. Chế Lan Viên hay lấy lý át người ta, dồn người ta
vào thế bí. Người ta ít gần. Sợ. Văn tiểu luận của Chế Lan Viên có từng đoạn sắc
sảo, hay. Nhưng nhìn toàn bộ thì không vững, xộc xệch lắm.
Anh lại quay ra nói về
Thơ mới. Anh cho rằng: “ Nói Thơ mới thoát thai từ hát nói là ngu. Thơ mới đến
độ kết tinh ổn định nào đấy thì gặp hát nói. Vả lại câu tám tiếng, câu mở rộng
của hát nói vẫn khác câu tám tiếng của Thơ mới.
Còn song thất lục bát
thì là thể ngâm, réo rắt, không hợp với Thơ mới. Thơ mới có nhu cầu kéo dài câu
thơ, vì nó phong phú, tràn đầy, nó cần nói nhiều.”
Bỗng anh quay ra phê
phán Phan Cự Đệ, Hà Minh Đức: “Hết thời Phan Cự Đệ, Hà Minh Đức rồi. Họ làm
xong nhiệm vụ lịch sử rồi. Đệ viết về Thơ mới, ca ngợi Thơ mới xong, bảo nó là
con đĩ. Chơi gái mãi rồi bảo nó là con đĩ. Đệ cứ dẫn ra những câu tương tự của
Thơ Pháp và Thơ mới để tỏ ra là đọc nhiều. Kỳ thực có sự gặp gỡ tự nhiên chứ
không phải bao giờ cũng là mô phỏng – Đối chiếu thơ Bác với thơ xưa nhiều khi
cũng thế.”
Huy Cận đi làm về. Anh
nói với tôi: “Ta phải gặp nhau nữa chứ. Tôi mới nói sơ sơ thôi, còn nhiều điều
chưa nói (trước đây ít lâu, tôi có một cuộc trò chuyện với Huy Cận). Anh Đệ,
anh Đức là nhà phê bình officiels. Tôi đã đọc anh viết về Nguyên Hồng, Nguyễn
Tuân, thấy có cái gọi là suy nghĩ. Còn nhiều người viết chẳng có giá trị gì”.
Xuân Diệu tiếp tục nói
về thơ mình. Càng nói càng sôi nổi: “Xuân Diệu là individu. Cái day dứt nhất ở
Xuân Diệu là cái “moi” và “non – moi”. Và căng cho hết mình. Làm thơ để thực
hiện cái le moi của mình là Xuân Diệu. Tình yêu thực hiện được sâu sắc nhất cái
cá nhân. Tình yêu gắn với cuộc sống vật chất, trần gian, bản năng, lại rất cá nhân
trong conscience. Xuân Diệu không làm thơ “anh anh em em”, mà thực sự làm thơ
trong phạm trù tình yêu. Xuân Diệu thách với cả thế giới về thơ tình yêu. Xưa
sôi nổi thanh niên, nay sâu lắng, suy nghĩ hơn.
Vấn đề thời gian trong
thơ Xuân Diệu lớn lắm: day dứt nhớ lại cái phút ấy, phút thần tiên ấy, cái chỗ
ấy, cái lúc ấy trong cả cuộc đời – cái phút thật là yêu, của phạm trù tình yêu.
Về sau chỉ là nghĩa, có nhiều cái ân tình khác, nhưng thật sự là yêu chỉ có cái
phút ấy. Thơ tình là vĩnh cửu hoá cái phút ấy.” Anh chuyển sang giọng tâm tình
thân mật: “Thơ tình Xuân Diệu có một sự trỗi dậy, sống dậy vào khoảng sau Riêng
chung, tức khoảng 1961 gì đó: “Bỗng anh xoè bàn tay ra khoe: “Đấy, mont de
Vénus của mình cao thế này (anh chỉ chỗ bàn tay gồ lên gần ngón cái). Mont de
lune của mình cũng rõ, giầu mơ mộng, rất lãng mạn (anh chỉ phía gần ngón út),
còn mont de soleil là danh vọng cũng rất nổi (anh chỉ khoảng giữa bàn tay phía
giáp các ngón). Thực ra anh người mập, bàn tay múp míp, chỗ nào chả đầy, chả
mọng lên.
Anh lại khoe nhận được
một lá thư nhờ làm hộ một bài thơ tình để tặng người yêu. Anh cười: “Làm thơ
tình thuê! Giá mấy hào một bài đây! Đấy, nhu cầu thực tế của đời sống về thơ
tình là thế đấy”
Tôi nói: “Anh Tố Hữu nói
làm thơ tình rất khó”. Xuân Diệu: “Khó ở chỗ phải chân thật, phải yêu thật”.
Chiều ngày 12 – 4 –
1985, 24 phố Điện Biên
Thấy tôi, Xuân Diệu mừng
lắm: “Vài ba tháng gặp nhau một lần là quý rồi. Cứ đi dép cho đỡ lạnh chân”.
Anh mời tôi uống cà phê, hút thuốc lá như thường lệ. Anh nói Như Phong chết làm
anh hoảng quá. Như Phong chủ quan, tự cho là khoẻ lắm. Cái chết! Thế là từ plus
infini thành moins infini. Tôi nói Nguyên Hồng chết sớm hơn và cũng đột ngột.
Xuân Diệu nói: “Nhưng mà Nguyên Hồng chết rồi, cái văn của anh ấy vẫn còn rên
rỉ. Còn Như Phong mất là không thấy dấu vết gì nữa”.
Anh xoay ra nói về giá
cả đắt đỏ mà nhuận bút thấp quá: “Nhuận bút tập sách viết 10 năm chỉ bằng một
chỉ vàng. Nhận nhuận bút mà buồn. Đi một chuyến lại hơn là nhuận bút. Quãng
Ngãi chỉ có 180 đồng một cân thịt bò. Đời sống hơn ngoài Bắc. Trong Nam đời
sống cao hơn, khí hậu dễ chịu hơn. Nhưng mà không được quên cái gốc. Trong Nam
họ suốt ngày lo kiếm tiền thôi. Sống ở Sài Gòn không chịu nổi. Không ai biết
anh là ai. Con người lọt thỏm mất hút đi trong cái biển người mênh mông”.
Anh lại xoay ra tính
toán cụ thể giá thực phẩm: 3 quả trứng gà 33 đồng, 2 quả trứng vịt lộn 18 đồng
một quả, nhân 3 là 36 đồng…
Bỗng anh ngắm nhìn tôi,
nhận xét: “Mạnh để tóc thế này hay hơn. Mặt mạnh nhỏ, để tóc thế này nó ôm lấy
mặt, đỡ gầy.” Tôi nói, nhiều người cũng khen như thế. Xuân Diệu cười: “Hoá ra
mình nhận xét thế mà đúng với ý kiến mọi người, “chúng khẩu đồng từ”.
Tôi nói, hình như Nguyễn
Tuân vào Quảng Nam viết một bài được trả nhuận bút cao lắm. Xuân Diệu nói:
“Đúng là Quảng Nam Đà Nẵng nó trả Nguyễn Tuân 10.000 đồng một bài. Bài có hai
trang. Không hay lắm. Nguyễn Tuân viết khó. Bây giờ viết khó hay lắm!”
Tôi hỏi anh có nghĩ gì
về khái niệm phong cách.
Xuân Diệu nói: “Style là
bút pháp và cũng là phong cách. “Khen rằng bút pháp đã tinh. Nghe bút pháp có
vẻ nặng hơn”.
Tôi nói, phong cách có
lẽ rộng nghĩa hơn, toàn diện hơn, sâu hơn. Anh đi tra từ điển: “Style: manière.
Manière d’ exprimer sa pensée. ừ, phong cách đúng hơn”.
Anh chê Nguyễn Xuân Nam,
cho là không thật, không tốt. Tôi nghĩ bụng chắc lại là cái chuyện Xuân Nam
viết về Huy Cận. Xuân Nam bị ngờ là bới móc Huy Cận. Xuân Diệu đã nói với tôi
một lần rồi. (Xuân Nam viết một bài về Huy Cận, anh ca ngợi sự chuyển biến tiến
bộ về tư tưởng của Huy Cận, đại ý: ngày xưa Huy Cận làm thơ thường đề tặng các
nhà văn trong Tự lực văn đoàn và cả con cái họ, nay anh làm thơ tặng nhân dân
lao động, như tặng một cô thợ mỏ, một anh thợ hàn chẳng hạn… Nhưng Xuân Diệu
lại hiểu là Xuân Nam có ý nói móc, xỏ xiên người bạn của anh ngày xưa từng nịnh
hót cánh Tự lực văn đoàn (Thực ra hồi ấy, Huy Cận từng tha thiết xin vào Tự lực
văn đoàn mà không được chấp nhận).
Anh chê Phan Cự Đệ, Hà
Minh Đức viết không có nội dung: “Nội dung là tình cảm. Không có tình cảm,
không có nội dung. Tôi cứ ném thia lia, bắn tin về Phan Cự Đệ. Tôi nói với Hà
Xuân Trường: Đệ làm tổng biên tập Nhà xuất bản Văn học thì chúng tôi sẽ đánh du
kích 5 năm cho phải đổ. Nói với Việt cộng phải nói bằng cách nói của Việt cộng
họ mới sợ”.
Anh đọc tôi nghe bài
thơ: “Nếu anh cứ thương nhớ em thì sao”. Bài thơ ba khổ. Khổ đầu hay.
Tôi khen bài thơ hay.
Xuân Diệu nói: “Những
câu thơ như thế phải đọc cho Mạnh nghe. Mình đọc được cho Mạnh nghe cũng thấy
thích. Bài “ Hoa anh ơi!” là một lời thơ đi suốt. Cả bài thơ là một lời đi
suốt”.
Anh nhắc tôi về kẻo
muộn. Đi về, ra ngoại thành, sương xuống, chắc là thấy cô đơn, buồn. Tôi nói,
có lần ở nông trường 1 – 5 Nghệ An, thấy con bò đi một mình buổi chiều, buồn
quá! Anh nói: “Con bò nó cũng thấy buồn – và thế là nó trở thành thi sĩ, trở
thành người”.
Anh tiễn tôi ra cửa,
nhắc thỉnh thoảng gặp nhau. ít ra một quý một lần, hai tháng một lần càng tốt.
Tôi nói, có lúc ngửi một
mùi hương, thấy nhớ một cái gì ghê quá. Anh nói, thế là Marcel Proust. Hương và
vị nữa.
Anh hỏi tôi về kết quả
cuộc chấm thi truyện ngắn tôi có tham gia. Tôi nói không có bài thật trội. Sàn
sàn cả. Anh nói chủ nghĩa xã hội chỉ tạo ra cái moyenne trung bình, bonne
moyenne, không có bon talent.
Anh nói, trong cuộc thi
thơ, Lâm Thị Mỹ Dạ thắc mắc sao không có giải A. Tôi viết một bài lôi ra có bài
loại B cũng không đáng. Lạm phát thơ. 150 nhà thơ! Sao nhiều thế! Phải dọn bớt
lại.
Anh động viên tôi: “Dù
sao chúng mình còn có chỗ họ mời. Có người không được thế. Mạnh và mình giữ
được vị trí do thực lực. Cần gì giám đốc, phó giám đốc. Rồi đổ ngay ấy mà! Cứ
viết cho tốt. Nghệ Tĩnh Tết vừa qua Tỉnh uỷ đi thăm Minh Huệ tuy Minh Huệ chưa
bằng Trần Hữu Thung. Song biết thăm ai? Thế là họ có chuyển”.
Từ 1966 đến 1985, năm
Xuân Diệu qua đời, tính ra tôi có tới vài chục lần được trò chuyện với Xuân
Diệu. Càng tiếp xúc càng thân, và anh càng cởi mở hơn.
Chỉ riêng năm 1985, tôi
gặp anh tới 5, 6 lần. Nhưng tôi nhớ nhất ba lần sau
đây:
1. Đầu năm 1985 cũng đi
với anh lên Tuyên Quang bồi dưỡng những cây bút trẻ ở vùng núi phía Bắc. Tôi
nhớ đi qua đền Hùng đúng vào dịp hội. Xe dừng lại, các anh trong đoàn (Chính
Hữu, Lê Lựu, Nguyễn Thành Long, Hữu Thỉnh, Vương Trí Nhàn và tôi) đều có đảo
lên đồi xem một lát. Riêng Xuân Diệu không lên. Anh ngồi lại trong xe. Chắc
mệt, ngại leo dốc. ở Tuyên Quang, chúng tôi nghỉ ở nhà khách của Tỉnh uỷ. Đêm,
tôi để ý thấy Xuân Diệu thở rất nặng nhọc, lắm lúc như hộc lên. Tim có vấn đề.
2. Lần thứ hai là ngày 5
– 10 – 1985. Tôi đến mời anh nói chuyện với lớp sinh viên đặc biệt (gọi là lớp
5C) do tôi làm chủ nhiệm. Anh giữ tôi lại, tặng tôi cái đồng hồ.
3. Lần thứ ba là ngày 10
– 10 1985. Tôi đưa 14 sinh viên đến phòng anh ở 24 Điện Biên để nghe anh giảng
thơ.
Đây là cuộc gặp cuối
cùng với anh. Hai tháng sau, anh qua đời (ngày 18- 12 – 1985).
Cả ba cuộc gặp này, tôi
đều đã đưa vào mấy bài chân dung viết về anh nên không thuật lại nữa.
Quan Hoa 5 – 12 – 2006.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét