Trích Chương IX – Hồi ký Nguyễn Đăng Mạnh (tiếp theo phần 3)
Thơ Xuân Diệu tả rất
giỏi cái nước đôi:
Mưa trưa và chiều tà/ Suy và thịnh/ Lặng lẽ và động.
Có một cái gì đấy mà Thế
Lữ không cảm nhận được. Chỉ Xuân Diệu, Huy Cận mới có cái antenne ấy để bắt
được những sợi giây vô hình của thiên nhiên. Thơ Xuân Diệu là vũ trụ sắc dục,
charnel. Là cái mê ly, là tạo atmosphère chỉ bằng vài câu, vài chữ.
Thơ Xuân Diệu mở đầu đột phá ngay, ào ra ngay. Nhiều vần sắc. Mãnh liệt. Đột xuất. Ào ào.
Bài Xuân
không mùa. Sentir được phong cảnh. Ngồi ở hồ Tĩnh Tâm, Huế. Có âm vang của Huế,
đẹp, kín, không sắc dục lộ liễu như thơ làm ở Hà Nội.
Mình có một bài inédit
nói về vũ trụ là xác thịt: thịt là hoa hồng, máu là hoa nhài, xương – liễu, mày
– lau, mắt – hồ.
Thế đấy, thơ Xuân Diệu
là thế. Frisson da thịt, sensation, antenne cảm nhận vũ trụ da thịt, hít thở da
thịt thiên nhiên. Thơ có mũi.
Anh ngừng nói, và bỗng
chuyển sang phàn nàn về đời sống. Hôm ấy là mồng một tháng chạp năm 1981. Ôi
những năm 80 của thế kỉ trước! Đời sống quá khổ cực. Mà Xuân Diệu thì quan niệm
cuộc đời rất cụ thể: Đối với anh, cuộc đời là bán một cuốn sách cũ cho đồng
nát, phải giữ lại cái bìa cứng và mấy trang giấy trắng; là ăn món gì phải tính
toán vừa bổ vừa rẻ, là thịt chó, thịt lẫn xương 4 đồng rưỡi một lạng, thịt nầm
6 đồng một lạng; là ngồi nói chuyện thơ mà vẫn phải chú ý theo dõi con gà mái
đẻ. Nó có tật ăn trứng. Thành ra nó đẻ, nhà thơ phải nhanh tay vồ lấy…
Vì thế anh rất bực bội:
“Xã hội bây giờ cứ bắt người ta làm thiên thần, nên giờ người ta làm con vật.
Bắt làm ange mãi, giờ người ta làm bête. Cách mạng chỉ tạo ra vinh quang thôi
ư? Phải ăn nữa chứ! Vinh quang trong đói khát mãi sao!”.
Ba giờ chiều, ngày 12 –
12 – 1981, 24 Điện Biên
Trời rét. Khô ráo. Cổng
ngoài nhà anh (và Huy Cận) dạo này có thêm liếp che bên trong song sắt cho kín
đáo hơn. Chỉ khoét một lỗ vuông. Cửa sổ phía trước thấy đóng. Tưởng Xuân Diệu
không có nhà, tôi bỏ đi, nhưng tính toán thế nào lại quay lại và cứ đẩy cửa
vào. Cửa sổ phía đông mở, nhìn vào thấy cửa buồng không khép, biết có người ở
nhà. Tôi vào phòng, thấy Xuân Diệu đang nằm ngủ, đắp chiếc chăn len hoa. Tôi
cảm thấy phiền, muốn quay ra. Hà Vũ gọi. Xuân Diệu trả lời, giọng hơi gắt: “Cái
gì thế? Ai thế?”. Sau thấy tôi, anh vội mời vào.
Tôi nói: “Chết, anh đang
ngủ, tôi không biết” Anh nói: “Không sao, chả mấy khi Mạnh đến”.
Có lẽ anh nghĩ, từ ngày
anh đi Paris về, bây giờ tôi mới đến, phải có chút gì của Paris để đãi tôi. Anh
cho ăn phomát, uống rượu vang đỏ, hút thuốc lá Mỹ, lại cà phê nữa.
Anh phàn nàn: “Cuộc sống
giờ khổ cực quá. Xã hội bây giờ như nhà không có chủ” – Anh lè lưỡi, nhắm mắt,
lại lè lưỡi – Sợ quá!” Anh khoe tập giấy ghi lời cảm ơn của những nơi anh vừa
làm việc ở Pháp, và đưa tôi xem bản chương trình làm việc ở Paris 7, Sorbonne,
Nice và một tờ báo Đoàn kết của Việt kiều.
Anh nói có một người đàn
bà Pháp ở Alger tên là Francoise Roger tập thơ Xuân Diệu như là tập Kiều. Đàn
bà Pháp mà rất giỏi tiếng Việt. Bà ta lấy một người Brasil. Bà ta cóp nhặt bốn
câu thơ Xuân Diệu ở bốn bài thơ khác nhau, rồi ghép lại thành một bài tứ tuyệt.
Và vận dụng thơ Xuân Diệu vào cuộc sống. Thí dụ: khi chạy vội theo tầu điện:
“Mau với chứ, vội vàng lên với chứ!”. Bà ta theo Hồi giáo, hôm nay ăn thịt,
ngày mai ăn chay nên: “Anh ơi anh, em rất sợ ngày mai”… Francoise Roger coi thơ
tình Xuân Diệu hay hơn cả thơ tình Musset.
Anh chê tập tiểu luận
của Lê Đình Kỵ viết về Tố Hữu: “Huy Cận đọc cho biết chứ tôi chưa đọc. Khen Tố
Hữu thì cứ khen, việc gì phải chê Thơ mới. Làm gì mà phải hạ nhân cách. Hàn Tín
luồn khố để làm đại tướng, để làm vương sau này. Lê Đình Kỵ luồn khố để nó cho
vào Sài Gòn gần vợ à ? Hay nó không in sách cho? Anh Lý Hải Châu rất tốt . Anh
ấy bảo Trương Chính, trong bài giới thiệu Tuyển tập Hoài Thanh, đã tán thành
Hoài Thanh phê phán Thơ mới. Anh ấy cắt bỏ đi. Tôi bảo anh Châu, sao anh không
cứ để nguyên như thế. Anh làm thế là anh cứu Trương Chính đấy chứ! Thơ mới
không cần thế đâu. Tôi chả dại đi bênh Thơ mới làm gì, nhưng mà tôi cứ đi bình
những bài Thơ mới hay!
Rồi anh nói tiếp vẻ bực
bội: “Ta cứ có cái lối bế quan toả cảng, không cho ai đi ra nước ngoài. Như đứa
trẻ cứ bịt mãi, che mãi, da thịt nó vẫn cứ lòi ra. Tôi còn đánh du kích Khổng
Tử nhiều. Không biết nếu chỉ có nước mình mà không có các nước khác thì ra sao?
Nguy thật! Không qua tư bản chủ nghĩa, thiệt nhiều quá! Không cho nói yêu, nói
hoa lá thì đợi đến thế giới đại đồng mới nói à? Thế trước cách mạng tháng Tám,
ai nói yêu, nói hoa lá đều là sai cả à? Là cản trở cách mạng à?”
Tôi cứ cặm cụi chép mấy
bản nháp thơ của anh thời Thơ mới, anh nói: “Mạnh hãy tạm xếp cái này lại để
viết bài văn xuôi cho Tuyển tập Xuân Diệu đã. Mà phải vay tiền Tuyển tập Nguyễn
Tuân đi mà bồi dưỡng để viết – lấy ngắn nuôi dài”.
Rồi anh xoay ra nói về
lớp thơ trẻ: “Bọn làm thơ trẻ bây giờ ngu dốt quá! Nó như cái ôtô lên giây cót.
Hết giây cót là không chạy được nữa. Như những cô gái tuổi dậy thì, ra vẻ lắm,
oai lắm – anh khuỳnh tay, vênh mặt, làm bộ kiêu ngạo – đến lúc có chồng, có con
là thôi hết”.
Trưa ngày thứ sáu 25- 12
– 1981, 24 Điện Biên.
Tôi đến Xuân Diệu để báo
hoãn cuộc gặp mặt với anh vào sáng thứ bẩy 26 – 12. Cổng ngoài đóng. Nghe
tiếng, anh chạy ra. Không có việc gì phải vào, sợ mở khoá lôi thôi, tôi nói với
anh một câu rồi từ biệt. Anh thò tay qua lỗ vuông khoét vào cái phên nứa che
ngoài chấn song cửa, bắt tay tôi. Anh nói: Ca dao Khu Năm có câu:
Thương em, anh đút cái
ấy qua rào,
Đút qua đút lại gai nó
cào rách da
Nói xong anh cười ha hả.
Chủ nhật, ngày 31 – 1 –
1982, 24 Điện Biên.
Tôi đến khoảng 4 giờ
chiều. Xuân Diệu đang làm việc ngoài sân sát cửa sổ, trông ra cổng, dưới bóng
hoàng lan. Bàn ghế làm việc bằng trúc. Như mọi lần, anh tiếp tôi vồn vã. Tôi
nói: “Anh đang làm việc, bận”. Anh gạt đi: “Làm việc thì bao giờ mình chả làm
việc”. Tôi vào nhà. Huy Cận đang nói chuyện điện thoại ở phòng ngoài, một lúc
vào nói chuyện vụ đắm tàu chết người ở Quảng Ninh. Vớt xác khó khăn. Người ta
vớt đồ đạc, quần áo, hành lý chứ không vớt người: “Mình quá tin ở tư tưởng thì
thành thế đấy. Mình là Mácxít, coi ý thức do tồn tại quyết định, vậy mà lại duy
tâm. Duy tâm nên bây giờ chịu hậu quả, quy luật nó quật lại. Nhưng thôi không
nói chuyện buồn làm gì. Ta nói chuyện khác”.
Huy Cận đọc cho tôi nghe
hai bài thơ anh mới làm.
Xuân Diệu giục tôi viết
bài về văn xuôi của anh. Anh nói: “Mệt quá! Viết khó lắm!, mệt lắm! Nhưng phải
cố gắng thôi. Thời gian! Mình 67 tuổi rồi! Trong ta có vàng, nhưng không viết
thì vàng cũng không có thể khai thác được”.
Anh lại nói kinh nghiệm
rất cụ thể: “Viết mỗi trang phải chừa lề rộng. Viết một mặt giấy thôi. Chừa lại
một nửa để sau bổ sung. Không phải cứ viết tuần tự từ đầu đến cuối. Cứ viết
từng đoạn rồi lắp ráp, như chuyện cây tre trăm đốt. Có khi cứ viết bừa đi rồi
chế biến sau. Đánh thọc sâu vào hầm Đờ Cát. Một mũi thọc sâu, bắt lấy Đờ Cát
đã, rồi quay ra giải quyết bọn còn lại không khó gì lắm”.
Anh mời tôi uống hai ba
thứ rượu vang của Pháp, Hung, Bungari và hút thuốc lá ngoại. Anh phàn nàn có
nhiều việc không đáng phải làm mà cứ phải làm, mất bao nhiêu thì giờ – những
việc linh tinh về sinh hoạt.
Anh lại nhắc tôi phải ăn
uống cho tốt. Và động viên: “Chúng mình còn được người ta giao việc cho mà làm,
thế là còn hơn nhiều người không có việc gì mà làm”.
Anh chê cuốn sách của
tôi viết về thơ Hồ Chủ Tịch, bữa trước tặng anh: “Bám vào Sóng Hồng nhiều quá
và sao cứ phải gò thơ Bác vào hiện thực xã hội chủ nghĩa làm gì! Thế chỉ hiện
thực xã hội chủ nghĩa mới có giá trị sao? Đã đến lúc ai cũng phải lột trần
truồng cả ra mà xem xét bình đẳng như nhau”.
Không hiểu sao câu
chuyện lại xoay sang Chế Lan Viên lúc nào không biết. Anh nói: “ Nhà văn có tri
thức, có văn hoá cao là Nguyễn Đình Thi và Huy Cận. Chế Lan Viên chỉ tài chế
biến ngay những sách vở đọc được, dùng trí
thông minh
mà vận dụng ngay. Chỉ có ngọn, chưa có gốc, có nền. Cứ phân tích, xé chẻ ra,
thiếu tổng hợp. Chỉ có cái gì là tổng hợp mới còn lại lâu dài. Lối viết của Chế
Lan Viên là phải dựa, phải tựa vào một cái gì đối lập, phải phê phán, đả kích
nó thì mới đưa ra cái chính diện. Không có cái gì để mà đả thì không viết nổi.”
Anh tán thành ý kiến của
tôi là cần biết thật tỉ mỉ về tiểu sử của anh. Và anh bắt đầu thuật kể. Anh
nói, bà má của anh đã có một đời chồng trước khi lấy ông thân sinh anh. Bà là
người không chịu khó làm ăn. Khi anh lên hai tuổi thì bà cả vào. Bà cả (anh gọi
là mẹ già) chịu khó làm ăn tần tảo. Má anh không ở được, phải đưa anh về với bà
ngoại ở Gò Bồi. Năm anh sáu, bẩy tuổi gì đó, bố anh đưa anh về Quy Nhơn ở với
ông và bà cả “cho khỏi hư hỏng”. Anh phải xa má từ đó. Má anh sau tập kết ra
Bắc ở với anh. Bà mất năm 1966. Bà cả sinh con trai. Nó kém tuổi anh nhưng anh
vẫn phải gọi nó là anh. Thằng “anh” nhỏ này hơi một tý là mách mẹ nó. Nó còn
đánh anh nữa. Hồi sang Pháp, phát biểu ở Paris 7, anh nói: “Nhờ bị thằng em
(thằng “anh” nhỏ) đánh mà tôi biết thông cảm với những người bị áp bức”. Anh
còn phải xách giỏ đi chợ, rất sợ gặp bọn bạn học, nhất là con gái, con những
ông Ký, ông Phán. Nhiều khi phải nép vào hàng rào, chui vào bụi cây, nhưng
không tránh thoát.
Cách mạng tháng Tám, Xuân Diệu được đưa vào Quốc hội. Tháng 5 – 1946, được cử vào phái đoàn Phạm Văn Đồng đi Paris (hội nghị Fontainebleau) kháng chiến toàn quốc, anh lên Việt Bắc, vào Ban chấp hành Hội văn nghệ. Anh tự thấy có một cuộc thức tỉnh về quần chúng. Anh nói: “Bài Bầm ơi! của Tố Hữu ảnh hưởng lớn tới hướng đi về thơ của mình. Bài Bầm ơi! là một sự phát hiện về nhân dân, được viết một cách nhuần nhị. Một sự chuyển hướng về tình cảm và về ngôn ngữ thơ. Rồi mình đi nói chuyện. Cũng là một cách quần chúng hoá, vì phải nói sao cho quần chúng hiểu. Rồi tham gia phát động quần chúng giảm tô ở làng Còng, Vĩnh Lộc, Thanh Hoá và làm thơ về bần cố nông”.
Sau cách mạng tháng Tám, Xuân Diệu sáng tác nhiều. Riêng thơ tình của anh, tính cho đến lúc này là 450 bài, cộng với các loại thơ khác, phải ngót 1000 bài. Anh nói: “Nếu cần chọn một bài tâm đắc nhất, mình chọn bài Biển. Hình ảnh biển từ nhỏ đã đi vào mình. Biển đau thương, bể khổ trong thơ ca truyền thống và thơ Xuân Diệu. Vậy mà nay biển vui, đầy sức sống. Cách mạng và cuộc đời đã đem lại cho mình một tâm hồn tươi mới”.
Xuân Diệu nói tiếp về những nhân tố tạo nên hồn thơ anh: “Có lý do năng khiếu bẩm sinh. Có lý do ở sức yêu mến cuộc đời. Sống hết mình, toàn thân, toàn trí, toàn tâm, toàn giác quan. Mình cảm thụ đời rất cụ thể, bằng cả xương thịt, da, mũi, mắt, tai và hồn. Mình nói chuyện, điệu bộ, nét mặt nhăn nhó buồn cười lắm, chụp ảnh mới biết. Nghĩa là rất cụ thể. Cả con người nói. Toàn thân tham gia vào câu văn, không phải chỉ có ý mà cả luồng cảm xúc tràn vào bài văn. Cho nên sáng tác là sống cao độ nhất cá nhân mình. Vì thế mình ham sáng tác nhất, dành nhiều thì giờ cho sáng tác.
Còn có lý do cần cù học tập nữa. Mình như là bà già, cái gì cũng nhặt nhạnh, tích luỹ. Đứa cháu đi đâu về kêu đói, bà đã có ngay cái cho cháu ăn rồi.
Do viết thư nhiều, tự phân tích mình, dần dần mình viết được văn xuôi. Do nói chuyện nhiều, phải lập luận, phải thuyết phục, phải làm cho người ta đồng cảm, mình viết được phê bình văn học.
Xuân Diệu tự cho là mình dại – dại mà lại thành khôn. Anh nói: “Do yêu cuộc sống nên tôi dại. Dại mà khôn. Nghĩa là được sống có ích cho đời, cho mình, được sống đầy đủ từng giây, từng phút của mình. Tôi ít đi tán chuyện, tán chuyện rồi nói xấu người này, người khác. Mình cũng chẳng cao đạo gì. Để thì giờ đọc và viết”.
Anh phàn nàn: “Cuộc sống của ta chật hẹp, gò bó quá! Con người ta bao giờ cũng sống một cách toàn diện, họ vẫn phải ăn, ngủ, giao hợp. Mình thu hẹp thơ tình yêu lại thì người ta sẽ chỉ có giao hợp, giao hợp, giao hợp mà không có tinh thần nữa. Không có tình yêu giữa hai con người thì chỉ còn là quan hệ giữa hai con vật”.
Thấy trời đã xâm xẩm, tuy muốn tiếp tục nói nữa, nhưng thông cảm với tôi đi đường xa, anh giục tôi về kẻo muộn...
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét