Nguyễn Hữu Quí
Thơ tồn tại như sự minh chứng cho sức sống của ngôn ngữ dân tộc. Chưa có dân tộc nào chối bỏ hay hạ thấp các nhà thơ chân chính, những người biết tôn vinh và chia sẻ với Tổ quốc mình bằng thi ca. Cũng không ai đánh giá, ghi nhận, xếp hạng nhà thơ chính xác, công bằng và sòng phẳng như đông đảo quần chúng nhân dân.
Thơ không chỉ có nghĩa mà chủ yếu phải là tình, là hồn, những khái niệm ai cũng biết nhưng lý giải một cách thấu triệt và sâu sắc là vô cùng khó. Trong thơ có hơi thở, hồn vía của dân tộc mình, đồng bào mình. Nó chính là cái thấm sâu nhất, lâu nhất và đương nhiên chi phối nhiều hơn cả trong hành trình sáng tạo của người cầm bút. Các nhà thơ đích thực ít ai không khởi đầu và đề cao chất truyền thống trong sáng tác thi ca. Bập vào những trào lưu, trường phái ngoại lai một cách vội vã, thiếu chọn lọc dường như làm cho người ta dễ quên điều đó. Hệ quả của sự tiếp nhận đó không mấy tích cực và sự thành công của nó cho đến hôm nay theo nhìn nhận của tôi là rất ít ỏi. Quá chuộng hình thức trong khi nội dung không mang được những phát hiện mới về cuộc sống, lạ xa với thế thái nhân tình, lợt lạt cảm xúc và cuối cùng là sự trắng tay của người cầm bút.
Mấy trường hợp khởi đầu ầm ĩ, ồn ào, được một đôi bác chú tung hê, ca tụng nay đã lặn hun hút. Đâu là mới mẻ, đâu là cách mạng, đâu là thành công? Sự lăng xê, tiếp thị không thay thế được tác phẩm.
Khái niệm đổi mới thơ có lẽ đã bị hiểu nhầm khi người ta chủ trương viết thế nào chứ không phải viết cái gì. Thực ra, viết cái gì cũng quan trọng như viết thế nào. Tư tưởng nội dung và hình thức nghệ thuật đều phải đạt 100% nếu tác phẩm ấy muốn đạt đến độ hay. Cả hai quyện chặt lấy nhau, tuy hai mà một như giọt lệ bi lãng mang trong nó nỗi đau và khát vọng của con người. Chính vì thế mà nó có vị mặn. Thơ của thời đổi mới ít vị mặn dù nó có vẻ lúng la lúng liếng hơn. Điệu đàng quá, điệu đàng không chịu nổi chẳng mang lại sức sống mới cho thơ, những tuyên ngôn cao giọng hùng hồn cãi vã lại thành quả sáng tạo cụ thể èo uột của họ. Hãy nhìn lại đi. Chưa có những tên tuổi đích thực làm cho chúng ta phải tâm phục khẩu phục. Sự thật là thơ vẫn chùng chình trong cuộc tìm đường đổi mới bởi những gì mà “phái” tiên phong cách tân mang đến quả là yếu ớt, mỏng manh và chưa tạo được “trường” hấp dẫn cuốn hút như nhiều người làm thơ, đọc thơ mong mỏi. Phần lớn người ta cảm thấy thơ khó hiểu hơn, tắc tị hơn, ảm đạm hơn, u ám hơn, rối rắm hơn. Xác thơ nhiều hơn hồn thơ. Những “hộp” thơ ngổn ngang, rối bời chữ.
Thơ đang thiếu hậu thuẫn từ phía người đọc bởi nhiều nguyên nhân nhưng theo tôi do hai điều cốt yếu là: ít thơ hay và tính nhập thế của thơ vô cùng thấp. Mạo muội nghĩ rằng đúc kết của cổ nhân (Hiệu Nhiên – Trung Quốc) vẫn nguyên giá trị tham khảo với người làm thơ: Thơ có 6 chỗ cần đạt đến (Thi hữu lục chí). Đó là: Hiểm nhưng không hóc tắc; Kỳ nhưng không quái; Đẹp mà tự nhiên; Lao tâm khổ tứ nhưng không để lại dấu vết ; Lời gần mà ý xa; Phóng khoáng nhưng không vu vơ. Không thể tùy tiện ghép các ngôn từ lại là thành thơ. Thơ mang trong nó những câu chuyện của cuộc đời, buồn vui thế sự, tư tưởng tình cảm. Thơ khác văn xuôi và càng khác câu nói bình thường bởi nó có thi tứ, có thi ảnh, tiết tấu nhịp điệu…
Nói tóm lại, nó phải có lề luật, quy tắc thơ; Câu dài, câu ngắn; Có vần, không vần; Êm xuôi, trúc trắc; Nhanh, chậm; Đậm, nhạt; Nặng, nhẹ; Duy tình, duy lý; Cũ, mới. Trước hết, cũng đều phải tạo ra được ấn tượng thẩm mỹ. Phải tuân thủ quy luật thơ, đó là quy luật của cảm xúc như Xuân Diệu từng nói.
Lo toan cho thơ mới mẻ thời nào cũng có. Làm thơ là sáng tạo, là công việc của kẻ không lặp lại mình, không bắt chước người. Người làm thơ ít người dửng dưng với đổi mới cách tân. Nhưng đổi mới thế nào, cách tân ra sao mới là điều đáng nói. Mở miệng rên la hay gào thét cũng có thể là thơ nhưng cũng có thể không là gì cả. Chàng kỵ mã thi ca có thể tạo ra được những đường phi ngoạn mục nhưng cũng có thể ngã ngựa từ bước vó đầu tiên vì không biết cầm cương. Không phải những clip ngôn ngữ tình tang được tung lên mạng mới được gọi là thơ đổi mới. Đưa chất tục, tính dục vào thơ cũng không gì mới cả. Điều đáng nói là cái tục, cái dục đó được thể hiện như thế nào thôi. Cũng đừng mong chửi bới vung vít hay ném những “vật kín”, những “vật thải” ấy vào thơ để trở thành tân kỳ hiện đại. Thơ nằm ngoài sự hời hợt và thực dụng, cũng không phải là trang sức của con người.
Lo toan cho thơ mới mẻ thời nào cũng có. Làm thơ là sáng tạo, là công việc của kẻ không lặp lại mình, không bắt chước người. Người làm thơ ít người dửng dưng với đổi mới cách tân. Nhưng đổi mới thế nào, cách tân ra sao mới là điều đáng nói. Mở miệng rên la hay gào thét cũng có thể là thơ nhưng cũng có thể không là gì cả. Chàng kỵ mã thi ca có thể tạo ra được những đường phi ngoạn mục nhưng cũng có thể ngã ngựa từ bước vó đầu tiên vì không biết cầm cương. Không phải những clip ngôn ngữ tình tang được tung lên mạng mới được gọi là thơ đổi mới. Đưa chất tục, tính dục vào thơ cũng không gì mới cả. Điều đáng nói là cái tục, cái dục đó được thể hiện như thế nào thôi. Cũng đừng mong chửi bới vung vít hay ném những “vật kín”, những “vật thải” ấy vào thơ để trở thành tân kỳ hiện đại. Thơ nằm ngoài sự hời hợt và thực dụng, cũng không phải là trang sức của con người.
Thơ xứng đáng được tôn vinh là linh hồn cuộc sống. Đổi mới thơ là làm cho thơ cần thiết với cuộc sống hơn. Phát hiện những bí ẩn của cuộc sống và diễn đạt nó bằng cảm xúc tràn trề, bằng sự thấu hiểu xa rộng, bằng những cấu tứ độc đáo, bằng những sáng tạo ngôn ngữ – đó là đổi mới. Hành trình đổi mới cũng là hành trình bám riết dân tộc, bám rễ cuộc sống, nhận ra trong sự xung đột xã hội những giá trị nhân văn tươi mới. Là hướng tới sự giản dị, giản dị, giản dị để truyền cảm được xúc động, xúc động, xúc động cao nhất. Điều ấy, thực ra bao thế hệ nhà thơ trong nước, ngoài nước đã làm mà R.Tagore (Ấn Độ) là một dẫn chứng vô cùng thuyết phục: “Thơ tôi đã rũ sạch mọi điểm trang lòe loẹt, không còn kiểu cách, huênh hoang. Vật trang sức sẽ làm hại tình thân giữa đôi ta, sẽ ngăn cách Người với tôi, và khi va chạm thành tiếng xủng xẻng sẽ át cả tiếng người thì thầm…” Có lẽ nhờ thế mà thơ R. Tagore sống mãi, mới mãi không chỉ với nhân dân Ấn Độ mà với cả nhân loại chúng ta.
(Nguồn: báo Sức Khỏe & Đời Sống)
1 nhận xét:
Nói đến hoa thì phải có sắc; sắc hoa là cái đập vào mắt người thưởng thức đầu tiên sau đó mới là hương hoa, cánh hoa , đài hoa...
Nói đến thơ thì ngôn từ, câu chữ phải là thơ, thơ mộng, gần gủi, ý, tứ, lời, âm, sắc phải giàu nhạc điệu, gần gủi, trữ tình...
có người viết thơ như "băm rau lợn" đem cái con chữ ra tung lên hứng xuống rồi xào xáo bầm dập ý tứ rối ren, ngôn từ sáo rỗng, vô nghĩa, cụt cẫng, bèm hem bập bạp như lợn đói đang ăn...
nên có thơ rằng:
Thơ mà đến thế thì thôi
Thà rằng cứ viết văn xuôi cho rồi
Đăng nhận xét