1. Sự cần
thiết phải đổi mới CT và SGK giáo dục phổ thông:
Tính đến thời điểm này (năm 2013) CTGDPT hiện hành đã triển
khai trên phạm vi toàn quốc được 11 năm. Việc xây dựng và phát triển CTGDPT ở
Việt Nam ngày càng được chuẩn hóa theo các yêu cầu vừa cập nhật hiện đại, vừa
bám sát thực tiễn đất nước. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khác nhau, việc xây
dựng CT và biên soạn SGK trong thời gian qua vẫn còn bộc lộ những bất cập, hạn
chế khó tránh khỏi trước sự phát triển quá nhanh của thực tiễn đời sống, của
khoa học kĩ thuật và công nghệ nói chung, khoa học GD nói riêng.
Quá trình toàn cầu hóa về các lĩnh vực đang diễn ra mạnh mẽ. Hội nhập
quốc tế, cách mạng khoa học công nghệ, cách mạng thông tin truyền thông, nền
kinh tế tri thức,… đã tạo ra cơ hội cho nền giáo dục Việt Nam tiếp cận các xu
thế mới, tri thức mới, mô hình giáo dục, chương trình giáo dục tiên tiến, hiện
đại và tranh thủ các nguồn lực bên ngoài để phát triển giáo dục.
Trong thập kỷ qua, lý luận phát triển chương trình
giáo dục đạt những thành tựu đáng kể. Ở hầu hết các nước, chương trình đã
chuyển từ cách tiếp cận nội dung (học sinh học được những gì) sang cách tiếp
cận năng lực (học sinh làm được gì từ những điều đã học). Hướng tiếp cận này
đòi hỏi vừa phải đổi mới mục tiêu giáo dục, vừa phải lựa chọn những nội dung
hết sức cơ bản, hiện đại, thực tiễn, đổi mới phương pháp giáo dục, hình thức tổ
chức giáo dục và cách thức đánh giá kết quả giáo dục.
Chiến lược
phát triển giáo dục 2011-2020 đã nêu giải pháp cụ thể cho giáo dục phổ thông “thực
hiện đổi mới chương trình và sách giáo khoa từ sau năm 2015 theo định hướng
phát triển năng lực học sinh, vừa đảm bảo tính thống nhất trong toàn quốc, vừa
phù hợp với đặc thù mỗi địa phương” .
Chương trình giáo
dục phổ thông hiện hành từ khi triển khai (năm học 2002-2003) cho đến
nay, chương trình đã bộc lộ những hạn chế, bất cập khá lớn; nhất là việc xây
dựng CT chủ yếu vẫn theo hướng tiếp cận nội dung: nghiêng về trang bị kiến thức
khoa học bộ môn; chưa chú trọng đúng mức đến rèn luyện phương pháp tự học, thực
hành và ứng dụng thực tiễn cho học sinh; chưa chú ý phát triển các năng lực cần
thiết trong xã hội hiện đại, đặc biệt là năng lực giải quyết vấn đề, năng lực
sáng tạo, năng lực hoạt động xã hội,...
Tất cả những
điều nêu trên cho thấy, đã đến lúc phải đổi mới chương trình giáo dục phổ thông, không chỉ để khắc phục
những bất cập của chương trình hiện hành, mà phải đáp ứng “nhu cầu phát
triển của xã hội” về mục tiêu, mô hình phát triển và yêu cầu chất lượng
nguồn nhân lực,… trong giai đoạn mới.
2. Định
hướng chung:
a) Tiếp tục
quán triệt, thực hiện các quan điểm nêu trong văn kiện của Đảng: Giáo dục và
đào tạo có sứ mệnh nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân
tài, góp phần quan trọng xây dựng đất nước, xây dựng nền văn hóa và con người
Việt Nam; phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng
cao, tập trung vào việc đổi mới căn bản và toàn diện nền GD quốc dân; gắn kết
chặt chẽ phát triển nguồn nhân lực với phát triển và ứng dụng khoa học, công
nghệ,…
b) Tuân thủ
quy định về chương trình, sách giáo khoa tại Luật giáo dục.
c) Thực hiện
Chiến lược phát triển giáo dục 2011–2020:
- Thực hiện đổi mới chương trình và sách giáo
khoa từ sau năm 2015 theo định hướng phát triển năng lực học sinh. Chương trình
phải hướng tới phát triển các năng lực chung mà mọi học sinh đều cần có trong
cuộc sống như năng lực sáng tạo, năng lực hợp tác, năng lực tự học, năng lực
phát hiện và giải quyết vấn đề
- Tạo điều kiện để học sinh được
phát triển hài hòa cả thể chất và tinh thần, được rèn luyện, phát triển các
phẩm chất, năng lực cần thiết và định hướng được nghề nghiệp sau giáo dục phổ thông
- Cấu trúc, nội dung chương trình, sách giáo khoa phải đảm bảo chuẩn hóa,
hiện đại hóa, hội nhập quốc tế và đảm bảo tính chỉnh thể, linh hoạt, thống
nhất, khả thi:
d) Các yêu
cầu mục tiêu của CT sau 2015:
- Đảm bảo
kế thừa những thành tựu của Việt Nam và vận dụng hợp lý kinh nghiệm quốc tế về
phát triển chương trình giáo dục phổ thông ...
- Đảm bảo tiếp nối từ chương
trình giáo dục mầm non đồng thời tạo nền tảng cho chương trình giáo dục nghề
nghiệp và giáo dục đại học; đảm bảo liên thông giữa chương trình, sách giáo
khoa cấp học, lớp học, giữa các môn học và trong mỗi môn học, hoạt động giáo
dục ...
- Nội dung giáo dục được lựa chọn là những tri thức
cơ bản, những giá trị lịch sử, văn hóa tinh hoa của dân tộc và nhân loại, những
thành tựu khoa học tiên tiến,…đảm bảo vừa hội nhập quốc tế, vừa gắn kết với
thực tiễn Việt Nam trong giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa; được thiết kế
theo hướng giảm tính hàn lâm, tăng tính thực hành, tăng cường vận dụng vào thực
tiễn ...
- Cải tiến nội dung giáo dục đạo đức, giáo dục công
dân, giáo dục thể chất và giáo dục thẩm mĩ theo hướng phát huy tính tích cực,
chủ động, sáng tạo, năng khiếu và hứng thú riêng của từng học sinh. Dạy học
ngoại ngữ, tin học theo hướng đáp ứng nhu cầu sử dụng trực tiếp của người học.
- Chương trình được xây dựng theo một chỉnh thể,
nhất quán từ lớp 1 đến lớp 12, từ cấp học đến các môn học và hoạt động giáo dục
nhằm đảm bảo tính thống nhất và hệ thống; được thiết kế theo hai giai đoạn:
Chương trình cấp tiểu học và chương trình cấp trung học cơ sở là CT giáo dục
cơ bản; chương trình cấp trung học phổ thông là CT sau giáo dục cơ bản.
- Chương trình được thiết kế theo hướng tích hợp
cao ở cấp tiểu học và cấp trung học cơ sở, phân hóa rõ dần từ cấp tiểu học đến
cấp trung học cơ sở và sâu hơn ở cấp trung học phổ thông. Giảm số lượng môn học
bắt buộc trong mỗi cấp học, lớp học và tăng các môn học, các chủ đề tự chọn đáp
ứng nhu cầu, năng khiếu, định hướng nghề nghiệp của học sinh.
- Đảm bảo tính thống nhất toàn quốc về mục tiêu,
nội dung và chuẩn chương trình; đảm bảo quyền tự chủ, linh hoạt cho các địa
phương trong việc bổ sung một số nội dung học tập và quản lý, thực hiện chương
trình phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh, đối tượng vùng miền, nhóm năng khiếu,
nhóm thiệt thòi,...
- Nội dung giáo dục phải phù hợp với thời lượng
dạy học: Ở cấp tiểu học là cả ngày (có hướng dẫn vận dụng cho những cơ sở giáo
dục chỉ có điều kiện dạy học một buổi trong ngày); ở cấp trung học cơ sở và cấp
trung học phổ thông là một buổi trong ngày (có hướng dẫn vận dụng cho những cơ
sở giáo dục có điều kiện dạy học cả ngày).
- Chương trình phải đảm bảo tính khả thi về thời
lượng học tập, sự phát triển đội ngũ giáo viên, cơ sở vật chất, trang thiết bị
giáo dục trường phổ thông; chỉ cơ sở giáo dục có đủ điều kiện mới triển khai
từng phần hoặc toàn bộ chương trình, sách giáo khoa mới.
e. Đẩy mạnh đổi mới
phương pháp và hình thức tổ chức giáo dục nhằm phát triển năng lực học sinh:
- Tiếp tục vận dụng và đổi mới các phương pháp
giáo dục theo hướng phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học
sinh; chú trọng bồi dưỡng phương pháp tự học, khả năng hợp tác, kĩ năng vận
dụng kiến thức vào thực tiễn,...
- Đa dạng hóa các hình thức tổ chức giáo dục trong
và ngoài lớp học, trong và ngoài nhà trường; tăng cường các hoạt động xã hội
của học sinh; cân đối giữa dạy học và hoạt động giáo dục, giữa hoạt động tập
thể, nhóm nhỏ và cá nhân, giữa dạy học bắt buộc và dạy học tự chọn,… để vừa
phát triển năng lực cá nhân vừa đảm bảo chất lượng giáo dục chung cho mọi học
sinh.
- Tăng cường hiệu quả của các phương tiện dạy học,
đặc biệt là công nghệ thông tin và truyền thông để hỗ trợ đổi mới phương pháp
và hình thức tổ chức dạy học. Tạo điều kiện cho học sinh được học tập qua các
nguồn học liệu đa dạng, phong
phú trong xã hội nhất là qua Internet,… Từ đó phát triển năng lực tự học
và chuẩn bị tâm thế cho học tập suốt đời.
3.
Đổi mới đánh giá kết quả giáo dục theo yêu cầu phát triển năng lực người học:
a) Đánh giá
kết quả giáo dục phải phản ánh mức độ đạt chuẩn chương trình (cấp học, môn
học); phải cung cấp thông tin chính xác, khách quan cho việc điều chỉnh hoạt
động dạy, hoạt động học nhằm nâng cao dần năng lực học sinh.
b) Thực hiện
đa dạng phương pháp đánh giá như quan sát, vấn đáp, kiểm tra trên giấy, trình
bày báo cáo, dự án học tập,… Phối hợp chặt chẽ các hình
thức đánh giá (đánh giá đầu vào, quá trình và tổng kết; đánh giá của giáo viên
và tự đánh giá của học sinh; đánh giá của nhà trường, gia đình, cộng đồng và xã
hội). Đổi mới cách tổ chức thi tốt nghiệp
trung học phổ thông theo hướng đơn giản, hiệu quả; kết hợp đánh giá kết quả
các môn học với kết quả thi, cung cấp cơ sở tin cậy cho việc đổi mới thi
và tuyển sinh cao đẳng, đại học.
4.
Quản lý việc xây dựng và thực hiện chương trình đảm bảo linh hoạt phù hợp đối
tượng và vùng miền:
a) Bộ Giáo
dục và Đào tạo tổ chức xây dựng và ban hành chương trình, trong đó quy định
chuẩn đầu ra để sử dụng thống nhất trong toàn quốc; công khai các yêu cầu và
tiêu chí đánh giá sách giáo khoa để làm căn cứ cho việc biên soạn, thẩm định và
phê duyệt sử dụng sách giáo khoa trong các cơ sở giáo dục.
b) Phát triển các loại tài liệu hướng dẫn, hỗ trợ dạy học để đáp ứng sự
đa dạng vùng miền, đáp ứng nhu cầu các đối tượng học sinh. Đặc biệt chú trọng
các tài liệu hỗ trợ học sinh dân tộc thiểu số và học sinh sống ở các vùng khó
khăn. Từng bước biên soạn, thử nghiệm và sử dụng chính thức sách giáo khoa điện
tử ở những nơi có điều kiện.
c) Các địa phương có thể xây dựng tài liệu hỗ trợ dạy và học phù hợp với
đặc điểm học sinh và đặc thù của địa phương đó. Các tài liệu này phải được thẩm
định bởi Hội đồng thẩm định cấp địa phương và được Bộ Giáo dục và Đào tạo phê
duyệt.
5. Xây dựng và phát triển chương trình giáo
dục phổ thông theo định hướng phát triển phẩm chất và năng lực người học:
Phát triển phẩm chất và năng lực người học trong
xây dựng và phát triển chương trình giáo dục phổ thông là định hướng nổi trội
mà nhiều nước tiên tiến đã và đang thực hiện từ đầu thế kỉ XXI đến nay.
Các nước đều
chú ý hình thành, phát triển những năng lực cần cho việc học suốt đời,
gắn với cuộc sống hằng ngày, trong đó chú trọng các năng lực chung như: Năng
lực tự học, học cách học; năng lực cá nhân (tự chủ, tự quản lí bản thân); năng
lực xã hội; năng lực hợp tác; năng lực giao tiếp (tiếng mẹ đẻ và ngoại ngữ);
năng lực tư duy; năng lực giải quyết vấn đề; năng lực công nghệ thông tin và
truyền thông...
Phương pháp dạy học hết sức đa dạng và phong phú song đều hướng sự tập
trung vào tổ chức, chỉ đạo các hoạt động của học sinh, hình thành phương pháp
học, biết vận dụng sáng tạo…
Việc kiểm
tra đánh giá kết quả học tập của học sinh phải nhằm đánh giá đúng được năng lực
người học; đánh giá bằng nhiều hình thức; kết hợp đánh giá quá trình với đánh
giá kết thúc, sử dụng kết quả đánh giá một cách hợp lý. Ngoài đánh giá năng lực
của từng cá nhân người học còn có đánh giá chất lượng giáo dục trên diện rộng,
chất lượng giáo dục của địa phương hay quốc gia.
6.
Phát triển nhiều bộ sách
giáo khoa theo cơ chế thị trường:
Xu thế chung
của các nước đều coi sách giáo khoa là một tài liệu dạy học quan trọng, nhưng
không phải là tài liệu duy nhất mà có thể có nhiều sách giáo khoa khác nhau cho
một môn học. Quan niệm về sách giáo khoa có thể khác nhau nhưng đều thống nhất
phải căn cứ vào chương trình giáo dục phổ thông và chuẩn kết quả cần đạt của
chương trình giáo dục phổ thông.
Phần lớn các
nước tiên tiến, sách giáo khoa chủ yếu do các nhà xuất bản tổ chức biên soạn và
phát hành theo cơ chế thị trường. Các địa phương, nhà trường, phụ huynh và
người học có quyền lựa chọn sách giáo khoa cho mình.
7. Xây dựng chuẩn giáo dục phổ
thông
Chuẩn giáo
dục phổ thông là sự cụ thể hóa mục tiêu giáo dục phổ thông; là kết quả đầu ra ở
mức tối thiểu cần đạt về phẩm chất và năng
lực của học sinh sau khi kết thúc mỗi cấp học.
a. Phẩm chất:
Theo phương án thử đề xuất về mục
tiêu ở trên, có thể đề xuất những phẩm chất cần hình thành và phát triển ở học sinh phổ thông bao gồm:
- Yêu gia đình, quê hương, đất nước;
- Nhân ái, khoan dung;
- Trung thực, tự trọng, chí
công vô tư;
- Tự lập, tự tin, tự chủ và có
tinh thần vượt khó;
- Có trách nhiệm với bản thân,
cộng đồng, đất nước, nhân loại và môi trường tự nhiên;
- Tôn trọng, chấp hành kỷ
luật, pháp luật và thực hiện nghĩa vụ đạo đức.
b. Năng lực
Năng lực là một yếu tố cấu thành trong một hoạt
động cụ thể. Năng lực chỉ tồn tại trong quá trình vận động, phát triển của một
hoạt động cụ thể. Vì vậy, năng lực vừa là mục tiêu, vừa là kết quả hoạt động,
nó là điều kiện của hoạt động, nhưng cũng phát triển trong chính hoạt động đó.
Bản chất
của năng lực là khả năng của chủ thể kết hợp một cách linh hoạt, có tổ chức hợp
lí các kiến thức, kĩ năng với thái độ, giá trị, động cơ, nhằm đáp ứng những yêu
cầu phức hợp của một hoạt động, bảo đảm cho hoạt động đó đạt kết quả tốt đẹp
trong một bối cảnh (tình huống) nhất định. Biểu hiện của năng lực là biết sử
dụng các nội dung và các kĩ năng trong một tình huống có ý nghĩa, chứ không ở
tiếp thu lượng tri thức rời rạc.
Với những
đặc điểm chung rút ra trên đây để chỉ đạo quá trình dạy học, giáo dục là muốn
hình thành, rèn luyện, đánh giá năng lực ở cá nhân tất yếu phải đưa cá nhân
tham gia vào hoạt động làm ra sản phẩm. Chương trình lần này được xây dựng theo
định hướng năng lực tất yếu phải tổ chức dạy học, giáo dục bằng phương pháp
thiết kế các hoạt động cho học sinh thực hiện.
Học sinh phổ
thông được hình thành và phát triển các năng lực chung và năng
lực chuyên biệt
a. Các năng lực chung
bao gồm:
- Nhóm năng lực làm chủ và phát
triển bản thân: Năng lực tự học,
năng lực giải quyết vấn đề, năng lực tư
duy, năng lực tự quản lý ...
- Nhóm năng lực về quan hệ xã hội: Năng lực
giao tiếp, năng lực hợp tác
- Nhóm năng lực công cụ: Năng lực sử
dụng Công nghệ thông tin và Truyền thông (ICT),
năng lực sử dụng ngôn ngữ, năng lực tính
toán...
b. Năng lực chuyên biệt: sẽ được xác định trong chương
trình các môn học/ hoạt động giáo dục.
(còn nữa)
1 nhận xét:
Hy vọng nói được làm được!
Đăng nhận xét