Trần Đình Sử
Trang Tử là nhà triết học độc đáo nhất
trong bách gia thời Chiến quốc. Trước tác của ông do không nhằm giải quyết trực
tiếp các vấn đề đạo đức và chính trị cho nên giàu chất triết học nhất. Cũng do
ông phát huy sức mạnh tưởng tượng tài hoa để lý giải các vấn đề trừu tượng, phổ
quát mà tác phẩm của ông lại giàu chất nghệ thuật nhất.
Với các tính chất đó, Trang Tử đã có ảnh hưởng sâu rộng trong tiến
trình văn học Trung Quốc và tác động tới tư tưởng học thuật của các nước lân
cận như Nhật Bản, Hàn Quốc, Việt Nam .
Các tác giả lớn không chỉ gây ảnh hưởng bằng tư tưởng, học thuật, mà
còn gây ảnh hưởng bằng chính phong cách sống, thái độ sống. Trang Tử
đã truyền lại cho đời sau một phong cách ngông, tư thế ngông, trở thành
“ông tổ ngông” trong văn học.
Cách đây chừng chín năm (1990), trong một bài viết về ý thức cá tính
trong văn học cổ Việt Nam ,
chúng tôi đã sơ bộ nhận xét, xem ngông là một biểu hiện cá tính độc đáo thời
trung đại. Theo chúng tôi, tài tử không phải là người tài theo quan niệm thông
thường, mà là kẻ lấy ngông làm tài, tài thoát ra thói tục, vì vậy mà nó gắn rất
chặt với tài tình. Các tác giả nổi tiếng như Hồ Xuân Hương, Nguyễn Du,
Cao Bá Quát, Nguyễn Công Trứ, Tú Xương, Tản Đà rồi Nguyễn Tuân sau này,…,
không ai là không ngông, mỗi người ngông một vẻ. Vậy cội nguồn văn hoá của hình
thức cá tính ấy là ở đâu ? Thiết nghĩ, ngoài các nguyên nhân của đời sống văn
hoá dân tộc Việt Nam, còn phải tìm đến những mẫu gốc văn hoá xa xưa từ trong
triết học Trung Quốc, một nền triết học đã để lại dấu ấn sâu đậm trong văn hoá
Đông Á và Việt Nam. Nếu phải tìm ở đó một người tiêu biểu nhất cho tính ngông
thì không ai ngoài Trang Tử.
Thật vậy, Trang Tử không chỉ là người sống ở thế kỷ IV – III trước Công
nguyên, mà còn là người có nhiều hành vi mang tính giai thoại ngông nhất trong
bách gia chư tử. “Ngông” người Trung Quốc gọi là “cuồng”. Ba người ngông nổi
tiếng đầu tiên trong lịch sử Trung Quốc có lẽ là Khuất Nguyên, Mạnh Tử, Trang
Tử. Mạnh Tử là người cao ngạo tự phụ trong việc khẳng định nhân cách lý tưởng
của đạo Nho. Khuất Nguyên quá ư luyến chúa nên khi bị xua đuổi đã cho mình là
sạch nhất, tỉnh nhất, rồi phẫn uất tự sát, trở thành kẻ ngu trung đệ nhất trong
lịch sử. Trang Tử ngông với lý tưởng “thích chí”, độc lập nhân cách, tự do ngao
du trong cõi đạo. Ngông của Trang Tử gắn với ý thức khẳng định con người tự
tại, tự do cho nên đã có ảnh hưởng sâu rộng nhất trong văn học.
Người ngông đối lập với đám người trung dung, thuận theo lề thói một
cách ngoan ngoãn. Người trung dung hay phụ hoạ theo quần thể, phủ nhận tự do cá
nhân, người ngông chạy theo cá tính tự do, thích cực đoan. Người trung dung tự
rèn luyện để thành tôi trung con hiếu, nghĩa phu tiết phụ, nhưng cũng tạo ra
những kẻ a dua, nói theo giả dối. Người ngông coi khinh lễ, phép, ghét tục,
ngạo đời, nói năng ngang tàng. Trong thực tế người ngông là kẻ đã làm tan rã
các phép tắc giả tạo trói buộc con người, mở ra một luồng gió mát giàu sinh
khí. Chính Khổng Tử là người đầu tiên khẳng định ý nghĩa của người ngông
(cuồng, quyến). Trong thiên Tử Lộ ông nói : “Cần phải có bọn ngông
cuồng. Bọn cuồng thích tiến thủ, bọn tiết tháo biết những việc không nên làm”.
Ông hiểu “cuồng” là có ý ương bướng, ngang tàng, phóng đãng. Bọn này tuy có
điều đáng ghét song lại có điều đáng quý là biết nêu ra cái mới, cái khác, mà
người đời không hiểu, lại gọi là “cuồng”. Trong triết học trung dung con người
chỉ biết những việc không nên làm, theo lối cũ, mà ít có chí tiến thủ,
cho nên Khổng Tử mới nghĩ đến bọn ngông. Nhưng trong đám học trò của ông, Tử
Lộ, Tăng Tích chỉ là những “tiểu ngông”.
Trang Tử mới thực sự là đại ngông.
Trang Tử có nhiều giai thoại ngông nhất. Trang Tử coi thường lệ tục. Vợ
Trang Tử mất, Huệ Thi đến viếng thì thấy Trang Tử đang gõ vò mà ca. Trang Tử
sang Sở thấy một bộ xương sọ liền lấy roi ngựa gõ vào xương sọ mà trò chuyện,
trái với thái độ tôn trọng người chết của mọi người. Trang Tử khinh miệt và từ
chối làm quan. Sở Uy Vương mời Trang Tử làm Tể tướng, Trang Tử từ chối, coi
ngôi vị Tể tướng như con bò được cho mặc áo gấm để dắt vào làm lễ tế giao ở
Thái miếu. Một lần khác Sở Vương cho người mời Trang Tử làm quan thì Trang Tử
khinh chức quan như con rùa khô để thờ. Trang Tử coi thường cái chết. Ông từ
chối học trò hậu táng, lấy cớ “Ta có trời đất để làm quan quách, mặt trời mặt
trăng là ngọc bích, các tinh tú làm ngọc châu, vạn vật sẽ đưa ma ta… Còn phải
thêm gì nữa”. Khi học trò lo xác thầy bị quạ rỉa, Trang Tử nói, chôn dưới đất
thì bị sâu bọ đục, có khác gì ! Trang Tử coi đời là một cuộc chơi, vô vi, tiêu dao,
tốt cho mọi người, mọi vật. Trong bách gia chư tử, Trang Tử là người nói tới
chơi (du) nhiều nhất trong trước tác. Có người thống kê nhận xét : Luận
ngữ có 5 chữ “du”, Mạnh Tử 8 chữ, Chu dịch 2 chữ, Hàn
Phi Tử 39 chữ, còn Trang Tử đùa với đời, bên cạnh việc du sơn
ngoạn thuỷ, nhưng chính thái độ “du thế” mới là ngông nhất, khiến Trang Tử trở
thành ông tổ của quan niệm cợt bỡn nhân sinh. Ngôn ngữ của Trang Tử lại càng
ngang tàng. Chính thái độ khinh bỉ cuộc sống xã hội thối nát đã khiến ông ăn
nói bộc trực, khác đám người trung dung. Trang Tử mộng hoá thành bướm. Ông nói
Trang Chu mộng hoá bướm là đại hạnh, còn bướm
mộng hoá thành Trang Chu là bất hạnh, ông dại gì chuốc lấy bất hạnh mà theo
giấc mộng của bướm ! Thật là một sự phủ định sảng khoái. Người đời thích sự hữu
dụng. Trang Tử lại ca ngợi sự vô dụng, thật là ngược đời !-có đến 96 chữ “du”, một con số kỷ lục. Hai chữ “tiêu
dao” thì hầu như là do Trang Tử sáng tạo, trong chư tử không đâu có. Chơi là
một thái độ siêu thoát, tự do, đùa cợt. Ông có thái độ “du thế”.
Trong sách Trang Tử, không chỉ Trang Tử ngông, mà nhân vật của ông cũng
ngông. Tống Nguyên Quân cho mời các hoạ sĩ đến vẽ bản đồ. Các hoạ sĩ khác đều
đến, vái chào cung kính, mài mực chờ đợi sai phái, chen nhau đứng đầy một sân.
Có hoạ sĩ đến sau ra mặt một vái rồi về nhà cởi trần, xoạc cẳng ngồi đợi. Tống
Nguyên Quân cho người đi theo dõi và khen: đó mới là hoạ sĩ thật, vì anh ta tự
do tự tại, không bị lệ thuộc vào kẻ khác ! Lời đánh giá của Tống Nguyên Quân
cũng ngông ! Ông Hồng Mông suốt ngày chỉ chơi như trẻ con. Khi Tướng Vân đến
hỏi thì ông khuyên chỉ nên chơi, chớ học gì, chớ tìm biết gì ! Cái đầu lâu của
Trang Tử cũng ngông. Khi Trang Tử tỏ ý sẽ xin đắp da thịt cho bộ xương để hắn
về nhà thăm lại người thân, thì đầu lâu từ chối : tôi đang sướng như vua, tội
gì lại trở về cho khổ !
Ngông của Trang Tử là hình thức siêu quần, xuất chúng, thoát tục nhằm
khẳng định một thế giới tự do, tự tại, độc lập, không phụ thuộc vào ngoại vật.
Ngoại vật theo ông bao gồm : một nhà sinh mệnh thọ, yểu, bần, phú, quý, tiện,
chức quyền ; hai là buồn, vui, giận, hờn ; ba là các tri thức, quan niệm, tư
tưởng, lễ tục, khen chê. Các thứ đó đều tạm thời, là kiến thức nhìn qua cái
ống, giả tạo và hạn hẹp. Do vậy chỉ có siêu thoát khỏi các thứ đó thì mới
được tự do, tự tại, thích chí !
Cái ngông Trang Tử mang tính nghịch lý : bề ngoài trái thường, trái với
lẽ phải thông thường, mà bên trong mở ra một chân trời khác. Nhà triết học
Trung Quốc đương đại Lý Trạch Hậu khẳng định : “Cái đạo của Trang Tử không hề
là bản thể tự nhiên mà là bản thể người. Ông nâng cao con người với tư cách là
bản thể lên tầm cao vũ trụ, cũng tức là nêu lên tính đồng nhất tồn tại trong
bản thể người với tồn tại tự nhiên của vũ trụ”. Vậy là cái ngông của Trang Tử
hướng tới khẳng định tự nhiên con người nên tinh thần của ông tương tự như tư
tưởng hiện sinh, khẳng định tồn tại có trước bản chất, nếu hiểu bản chất là
toàn bộ sự quy định của ngoại vật. Cho nên cái ngông của Trang Tử là cái ngông
của tinh thần triết học, ngông của trí tuệ, cao siêu, khác hẳn cái ngông của kẻ
ngu dốt liều lĩnh. Đó có thể coi là hành động nổi loạn chống lại mọi thứ “vi”
tạo tác giả tạo, trái tự nhiên làm cho cuộc sống bị gò bó vô ích.
Ngông của Trang Tử là cái ngông giải phóng cá tính, “nhậm tính”, “nhậm
tình”, buông thả tình cảm, nhằm dưỡng sinh, thích chí. Nó khác cái ngông của
Đông Phương Sóc đời Hán, tuy có vẻ bỡn cợt thời thế, mà chỉ một mực trung thành
với triều đình. Trái lại, Trang Tử là người đầu tiên trong lịch sử triết học
Trung Quốc nhấn mạnh tới tự do cá nhân, tự giác tìm kiếm tự do, khinh đời, ghét
tục, ngạo mạn bất quần. Đương thời Trang Tử rất cô độc, không mấy ai hiểu ông.
Mãi đến khi tư tưởng đại nhất thống sụp đổ vào đời Nguỵ Tấn thì Trang
Tử là người được tôn xưng, được nhiều người sùng bái, bắt chước. Kẻ sĩ thời
Nguỵ Tấn từ chỗ lo vua, lo nước, chuyển sang lo cho mình, trọng cá nhân, trọng
tình cảm, trọng dục vọng, thích làm những hành vi độc đáo, và Trang Tử trở
thành tấm gương. Nhưng nếu Trang Tử chú trọng tự do tâm hồn thì người thời Nguỵ
Tấn vừa trọng tâm hồn lại vừa quý thân. Nguỵ Văn Đế Tào Phi coi khinh lễ tiết,
chuộng tự nhiên. Khi Vương Xán chết, Phi cùng mọi người đến viếng và đề nghị :
khi sống Xán thích nghe tiếng lừa kêu, mọi người hãy kêu như lừa để đưa tiễn
ông ta. Thế là mọi người đều hý như lừa để tỏ lòng tưởng nhớ ! Đới Chấn thị
tài, khinh thói tục. Khi mẹ chết vẫn ăn thịt, uống rượu như thường. Lúc mọi
người chất vấn trái lễ, Chấn nói : tôi ăn mà không thấy ngon gì cả thì vẫn có
hiếu chứ sao ! Chấn xem lễ tục là ngoại vật. Khổng Dung phủ nhận quan hệ huyết
thống tôn ty của Nho giáo. Ông nói con đối với mẹ như vật để trong bình, khi đẻ
con là dốc bình để đổ vật ra, thì vật còn có quan hệ gì với bình ! Những lời lẽ
“vô đạo” ấy muốn mở rộng cách hiểu, giải phóng tư tưởng ! Trương Hủ nêu cao tư
tưởng “nhân sinh quý thích ý”, đã trở thành khẩu hiệu cho nhiều người mà sau
này Nguyễn Công Trứ sẽ lặp lại. Lưu Linh chỉ thích rượu say. Nguyễn Tịch lên
núi Quảng Vũ Sơn, nhìn chiến trường Hán Sở mà nói : “Thời đại không có anh
hùng, khiến bọn nhãi ranh trở thành danh !”. Ông khinh cả Lưu Bang, Hạng Vũ.
Khi mẹ chết, Tịch ăn hết một con lợn sữa, uống cạn hai vò rượu, nhưng khi mai
táng thì đau đớn khóc đến nỗi thổ huyết ra ! Kê Khang thì “vượt danh giáo mà
buông thả tự nhiên”, “chê Khang, Vũ mà coi thường Chu ,
Khổng”.
Đến đời Đường thương nghiệp phát triển, khoa cử mở mang đã tạo điều
kiện cho cá tính giải phóng. Lý Bạch là nhà thơ có hoài bão lớn, gặp tiểu nhân
gây trắc trở, ông đã tỏ ra khí phách ngông ngạo. Ông đã bắt Dương Quốc Trung
mài mực, bắt Cao Lực Sĩ cởi giày, lấy rượu làm phương tiện giải thoát. Ông từng
có câu thơ ngạo mạn : “Cổ lai thánh hiền giai tịch mịch – Chỉ hữu ẩm giả lưu kỳ
danh”. Đỗ Phủ làm thơ về Lý Bạch lại có câu : “Thiên tử cho gọi chẳng lên
thuyền, thưa, thần nhờ rượu đã thành tiên !”. Truyền thuyết nói “Lý Bạch mặc
cẩm bào, chơi ở sông Thái Thạch, ngạo mạn tự đắc, không biết có ai, vì say rượu
mà ngã xuống sông, bắt ánh trăng mà chết” đã nói lên cái ngông của ông.
Đến đời Minh, kinh tế hàng hoá càng phát triển, xã hội phong kiến thối
nát, kẻ sĩ cấp tiến càng ý thức về sự ngột ngạt, càng có những biểu hiện ngông
cuồng. Lý Trác Ngô (Lý Chất) coi khoa cử như đùa, ông đi thi nhại theo thời văn
mà làm bài, thế mà cũng đỗ được cái cử nhân, được làm quan đang có cơ lên chức
thì tự bỏ quan. Ông có câu nói khác thường : thuở bé bị thầy và gia đình quản
lý, làm quan lại bị quan trên quản lý, về quê lại bị quan sở tại và tổ phụ mẫu
quản lý. Ông đành bỏ nhà phiêu bạt là thoát khỏi cái thân bị cai quản !
Ông bất chấp dư luận nhận sự cung phụng của một bà quả phụ, lại viết thư từ bàn
về Phật học với một bà quả phụ khác ! Ông công khai đi theo “dị đoan” là Lão và
Phật. Ông nói từ Khổng Tử đến nay, vì lấy thị phi của Khổng Tử làm thị phi, cho
nên đã không còn thị phi nữa ! Ông tiếp thụ cái buông thả tự nhiên của Trang
Tử, tinh thần “chửi tổ, quát Phật” của đạo Thiền, xô đổ thần tượng, tôn thờ cá
tính tự do và cũng hấp thụ cái tiến thủ của đạo Nho. Cuối cùng ông đã mượn dao
cạo tự tử.
Kim Thánh Thán càng là một nhân cách ngông ngạo. Ông tự đặt tên mình là
Thánh Thán, là lấy câu Khổng Tử “Thán viết” trong Luận ngữ, ngụ ý mình là
Khổng Tử. Ông xem khoa cử như đùa. Trong bài thi, trước câu hỏi của đề bài:
“Trước tiền bạc, gái đẹp, kẻ trượng phu có động lòng không”, ông viết liền một
mạch 39 chữ “động”, ngụ ý “tứ thập nhi bất hoặc”, đến chữ thứ 40 thì không động
nữa, giống như Khổng Tử từng nói. Thánh Thán rất thị tài, tự phụ, tự coi là đại
tài, coi đời là một cuộc chơi, ông cho là ở đời nên “tận tính”. Tận tính là thế
nào? Nghĩa là trời phú cho ta cái tính thế nào thì thể hiện ra bằng hết, thể
hiện trọn vẹn, không che đậy, gò bó. Chọn Ly tao, Trang Tử, thơ Đỗ Phủ, Sử
ký, Thuỷ hử, Tây sương ký làm “sáu tài tử thư” và bình theo cách riêng của
mình để phát triển ưu phẫn, xưa nay chưa từng có, đặc biệt ông còn dám cắt xén
tác phẩm, đổi thay chi tiết cho hợp ý mình, tạo thành tác phẩm “của mình”. Thật
là tự do phóng túng. Ông trở thành một hiện tượng lớn, độc đáo của phê bình văn
học cổ Trung Quốc. Ông bị chết oan dưới lưỡi đao của quan lại nhà Thanh.
Các hiện tượng ngông ngạo trong lịch sử văn học Trung Quốc còn nhiều,
còn có thể kể đến Từ Vị, Cung Tự Trân và nhiều người khác. Tư tưởng của họ đã
khác nhiều với Trang Tử, nhưng họ đều yêu mến Trang Tử, chọn hành động siêu
quần, khác tục, cao ngạo, khinh đời, đều đề cao tự do tự tại cho con người cá
thể, buông thả tình cảm tự nhiên.
Các nhà thơ văn Việt Nam
từ Nguyễn Trãi đã có yếu tố ngông, nhưng phải bước sang giai đoạn phong kiến
suy tàn thì nhân cách ngông mới thực sự biểu hiện nhiều mặt.
Nhà nghiên cứu Liên Xô trước đây Phêlích Kôn trong công trình Đi
tìm cái tôi (1984) có nói : “Bất kể là người trung đại ý thức về chính
mình như thế nào, thì anh ta vẫn cảm thấy mình là kẻ phụ thuộc ; phụ thuộc vào
ai đó hoặc phụ thuộc vào cái gì đó (gia đình, dòng họ, quan địa phương,
đất đai, công xã, giáo phận). Cảm giác phụ thuộc phú cho anh ta một tính xác
định xã hội vững bền, nhưng điều đó cũng trói buộc khả năng cá thể và tầm rộng
về thế giới quan của anh ta. Người trung đại cảm thấy mình là người đại diện
cho ai khác, chứ không phải là chủ thể sống động. Cuối cùng, đối với người
trung đại, bất cứ sự khác biệt và đổi thay nào vượt ra thường quy đều là điều
không thể chấp nhận”. Đó là một nhận định có phần tuyệt đối hoá. Nếu cứ như thế
thì lấy đâu ra hiện tượng Trang Tử? Nhà nghiên cứu A. Ja. Gurevich hiểu một
cách khác: “Trở về thời trung đại chúng ta trước hết cần thấy rằng, chính trong
thời đại này, khái niệm cá nhân được hình thành một cách trọn vẹn” (Nxb Giáo
dục, Hoàng Ngọc Hiến dich, 1996, tr. 321).
Những tính cách ngông nêu trên rõ ràng là phá vỡ thường quy, thói tục,
giải phóng cá tính, làm suy yếu cảm giác phụ thuộc để đưa con người lên ngôi
chủ thể. Cho dù cái ngông về sau đã biến hoá thế nào thì vị tổ đầu tiên khơi
dòng định lối chính là Trang Tử.
(Nguồn: pbvh.com.vn)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét