Từ khi tập thơ Ước mơ gửi phía chân trời ra
mắt bạn đọc, nhiều độc giả biết được một Nguyên Âm, lãng mạn, đa
tình, yêu say đắm. Một tình yêu có trợ lực quá khứ tuổi học trò
đầy đam mê với bóng hồng xao xuyến; một tình yêu dồn tụ trong hiện
tại đầy nhiệt thành của con tim từng trải, đang lo sợ dòng thời gian
cướp mất cõi yêu nên ngoài ngũ
tuần rồi vẫn la là trong khao khát yêu thương; một tình yêu chấp nhận
đến sau, bao cú chót, yêu em không
phân biệt sang hèn, địa vị...
miễn sao
trong mắt anh, em là tất cả.
Cứ thế mà hướng vào tương lai một sự
nồng nàn, mãnh liệt với một cõi yêu em. Lửa từ tim anh tỏa xuống
những trang thơ, rồi truyền đến bao người đọc thơ anh một thao thức,
rạo rực rất trần thế mà không trần trụi.
Có ai
ngờ ngoài những tác phẩm đã in, xuất bản trên giấy, anh còn một cõi
thơ khác chỉ xuất bản mồm, có tính dân gian hóa, rất lạ với mức say
tình không kém. Những sáng tác này có khi là những ứng tác bởi
hoàn cảnh riêng có em làm nguồn cảm hứng, có em làm mồi cho những
chén rượu tình thêm nồng đượm, và có em để giúp anh dễ mở ra cánh cửa thơ cùng những cảm xúc mới...Thế là
một bài thơ ra đời, rồi được ghi nhớ và lan truyền đến bè bạn.
Tôi rất
bất ngờ khi nghe anh đọc bài thơ không có đề sau đây:
Nếu em chết anh là người xây mộ
Đếch cho thằng nào góp nửa lạng xi măng
Nếu em chết thân anh là nghĩa địa
Trái tim này hương khói đến nghìn năm.
Quả thật
đề tài không mới với chính thơ của Nguyên Âm, và cũng như bao nhiêu
bài thơ của những nhà thơ khác nhưng lại có cách nói lạ. Đếch cho thằng nào rất khẩu ngữ
quen thuộc của thơ Nguyên Âm, thậm chí tình anh dành cho em không phải
là mối tình đầu, cũng không cần em đến với anh là người duy nhất.
Điều này dễ thấy trong nhiều sáng tác của anh, đều có
số đông, anh chỉ chen vào để xin tí
chút, rất khiêm tốn, biết người biết mình, không bao giờ muốn bị
trắng tay trên tình trường vì độc chiếm. Chấp nhận đến sau, chấp
nhận đấu thầu, cạnh tranh quyết
liệt, để rồi bao cú chót. Lối đi này rất dễ làm mềm lòng đối
tượng, có thể không còn đẹp trai, phông độ; có thể không hào hoa,
lịch lãm hơn người, nhưng anh có được tấm lòng, một khối tình si
dành cả cho em nên ai có muốn san sẻ dù nửa lạng xi măng cũng không
chấp nhận. Sự phủ quyết này có thể có nhiều nguyên nhân, nhưng tựu
trung có thể suy ra hai loại nguyên nhân cơ bản sau: những thằng ấy đóng góp chẳng qua vì
thương hại hoặc vì miệng đời chứ nào có vì tấm lòng yêu em.
Với anh, em còn sống đương
nhiên là yêu hết mình rồi, giả định, em có chết vì nhan sắc tàn phai
hay vì bất cứ lí do nào, anh cũng yêu hết dạ. Diễn biến cảm xúc thơ
anh độc đáo hơn nằm trong hai câu cuối này. Người ta chết thường được
đem ra nghĩa địa để chôn là địa táng, nếu đem thiêu đi thì là hỏa
táng, nếu lấy tro người chết rắc lên không trung là thiên táng, rải
xuống sông, xuống biển là thủy táng. Tôi hoàn toàn bất ngờ với cách
nói lạ của anh. Đó là thân
táng và tâm táng. Cùng với
cách thể hiện đầy bất ngờ ấy là sự chuyển đổi giọng điệu. Hai câu
đầu có vẻ đùa cợt ở việc sử dụng từ đếch và hình ảnh xây mộ bằng xi măng của riêng mình. Thực ra cái
duyên cũng là cái hay của bài thơ dường như có sự chuẩn bị kỹ cho
hai câu cuối hoàn thành. Giọng thơ chuyển đổi sang trân trọng và chân
thành, thủy chung hơn.
Thân anh là nghĩa địa. Tim anh là hương khói. Có
cách nào diễn đạt tuyệt vời hơn thế nữa. Nếu nối tiếp, xâu chuỗi
từ việc xây mộ trên bằng xi măng mang yếu tố vật chất đến khi kết
lại thuộc yếu tố tinh thần - xây bằng lòng thủy chung, bằng sự tự
nguyện gắn bó lâu dài. Tấm lòng của Nguyên Âm đã dành cho em đến như
thế thì làm sao những kẻ góp nửa lạng xi măng mà sánh cùng cho được
!
Bài thơ
mới xuất bản mồm thôi, nhưng người viết bài này vẫn cho là một trong
những bài thơ hay nhất, chân chất nhất và cũng rất Nguyên Âm nhất .
Yêu mà đến thế thì có mấy
ai ít lời mà sâu nặng tình chung được như Nguyên Âm.
04-2013 / Đinh
Công Tôn
* Những chữ in nghiêng trong bài viết này là của Nguyên Âm
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét