Nói
đến Văn hoá Quảng nam không thể không nhắc đến văn nghệ dân gian. Trong các
loại hình sinh hoạt văn nghệ dân gian xứ Quảng ngày xưa được ưa chuộng, nếu để
chọn ra những món ăn đặc sản tinh thần không thể thiếu thì đó là diễn xướng bài
chòi và Hò khoan đối đáp.
Bài chòi trước đây chỉ được tổ chức vào dịp Tết
Nguyên Đán, nó hiếm hoi như vậy là vì mỗi lần tổ chức khá tốn kém, việc chuẩn
bị cũng phải tỉ mẩn : "kép công " (...)
Còn Hội hò khoan thì khác hẳn. Hò khoan là
một loại hình "dân ca" sinh hoạt dân gian miền sông nước, là
"lời ăn tiếng nói" của quần chúng lao động được trải nghiệm, thu nhận
qua vốn sống hàng ngày mà biểu lộ ra, qua tài năng của các nghệ nhân được cải
biến đi, nâng tầm lên thành vần điệu cho nghệ thuật hơn, làm phương tiện để
trao đổi, bày tỏ, chuyển tải tâm tình giữa những cá thể, những tập thể với nhau
trong cộng đồng. Ở Quảng Nam ,
gọi là hò khoan vì đây là một dạng hò "lơi". Các nghệ nhân lợi dụng
câu hố (À ơ... ơ...ớ....Khoan...ơ... hố hợi...là hò...khoan ) như một tiểu xảo,
kéo dài ra để có thời gian mà tìm ý, lời đối đáp. Hố thường đồng xướng tập thể,
hoặc một người xướng, tập thể hò xô theo để tạo thêm khí thế, cho nên người xưa
có câu ví von rằng:
Gốc tre khéo nấu cũng ngon
Hò khoan hát dở,
hố dòn cũng hay
Ông
cha ta, trong cuộc hành trình về phương Nam đi mở đất đã "gánh theo
tên đất, tên làng" và mang theo cả những câu hò trong huyết quản. Do đó,
Hò khoan hiện diện từ Bắc chí Nam ,
đặc biệt rất phát triển ở dải đất miền Trung. Bây giờ chúng ta còn được nghe Hò
khoan Quảng Bình, Lệ Thuỷ, tại những hội lễ làng bên sông Kiến Giang. Tại miền
Trung, hò khoan có mặt ở khắp các tỉnh, mỗi tỉnh lại có cách thể hiện khác
nhau. Khi vào đến miền sông nước đồng bằng sông Cửu Long thì hò đối đáp có sắc
thái êm ả, phóng khoáng hơn rất nhiều như ta nghe một điệu hò Đồng Tháp, đôi
câu đối đáp huê tình...
Ở nông thôn ta trước
đây, vaò những dịp nông nhàn, tấn vụ (trước khi xuống đồng vào vụ mới, nông dân
làm lễ cúng Thần Nông, hoặc sau vụ thu hoạch mùa màng, lúa đầy bồ, cá tôm đầy
bến ...) vào những đêm trăng sáng, trai thanh, gái lịch rủ nhau ra sân đình
làng hoặc bãi đất nơi bến sông rộng, thoáng để lập hội hát Hò khoan. Đó là
những cuộc chơi "hoành tráng". Còn thường ngày khi lao động trên đồng
cạn,dưới đồng sâu đều có thể đối đáp cho vơi đi nhọc nhằn vất vả. Nhiều lúc cao
hứng họ có thể hát đối đáp với nhau trên thuyền, giữa thuyền này với thuyền
khác khi đang bồng bềnh trên sóng nước trữ tình. Một Hội Hò khoan không đòi hỏi
chuẩn bị gì nhiều, tất cả vốn liếng là "ở trong ruột" , hứng tình là
hát ở bất cứ đâu cho nên, hò khoan dễ tổ chức hơn.
Tại Quảng Nam, theo các bậc "cao niên trưởng
thượng" thì hồi ấy, ở địa phương nào cũng có hội hò khoan, thậm chí một
địa phương cũng có nhiều hội. Đó là một tổ chức tự nguyện (như Câu lạc bộ bây
giờ) quy tụ những "tài năng" ứng đối giỏi, có thể "xuất khẩu
thành thơ" ngay, hát được mọi chủ đề, mọi tình huống, kiến thức rộng để
không bị đối phương "bắt bí". Có khi nhiều nhóm trong một địa phương
tổ chức đối đáp với nhau, lại lắm khi "con gà tức nhau tiếng gáy",
các hội cách xa nhau dưới biển trên nguồn, nghe tiếng biết tên nhau cũng tìm
đến thi thố hát hò. Có vị ê chề vì thua mưu hát xạo nên biệt xứ tha phương, lại
cũng lắm khi vì khích bác nhau nặng nề nên xảy ra xô xát dẫn đến thương vong.
Tôi xin nêu lên đây một vài câu hát
xạo do các nghệ nhân cao tuổi
kể lại để chúng ta cùng tham khảo :
Ta muốn hôn má bậu mà chơi
Hoa kia còn phong nhuỵ Bướm lả lơi phỉ tình
Nữ :
Má đâu có sẵn mà hôn chơi
Anh ra ngoài đồi bắt chó mà hôn
Trên sơn
dưới thủy, bạn giữ kỹ làm gì
Tiền thân hậu phúc, kiếm chút ấu nhi mà bồng.
Tiền thân hậu phúc, kiếm chút ấu nhi mà bồng.
Nữ :
Trên sơn
dưới thủy, ta có giữ kỹ cũng ra đám đất bằng
Mai sau bạn có chết thì ra chỗ nớ lập cái lăng mà thờ!
Mai sau bạn có chết thì ra chỗ nớ lập cái lăng mà thờ!
Qua mẩu đối thoại trên ta
có thể thấy người nam từ chỗ hát ghẹo, do "tán
tỉnh" thái quá, thiếu lịch lãm nên không được người nữ chấp thuận mà trả
đũa thẳng thừng. Dường như chưa thoả, một nữ khác phụ hoạ thêm:
Nữ:
Nghe đồn chàng khát nước thèm nghêu
Gặp chàng đây thiếp thử trao nghêu cho chàng cầm,
Cầm về bỏ vô ảng mà ngâm
Cho nước nó ra mà uống, nghêu cầm mà chơi!
Đến
nước này thì người nam chẳng thể nhịn, vội đốp chát với miếng võ "gậy ông
đập lưng ông " của bên nữ,
Bạn trao nghêu thì để ta cầm
Ta cầm về bỏ ảng ta ngâm
Nước ra đôi chén, ta cầm về cho nhạc gia
Ông uống rồi ông lại thở ra,
Khen cho thằng rể ở xa (mà) hiếu tình.
Đây chỉ là những câu hò chưa "nặng đô"
lắm, nhiều câu còn "độc địa” hơn nhiều khiến người trong cuộc dễ
"tăng huyết áp". Nếu trong Hội có người cao tay hơn, uy tín hơn ra
tay "hát can, hát rước" để giải mối bất đồng và lái câu chuyện đi về
phía khác thì mới không đổ vỡ, nếu không, cao trào đỉnh điểm sẽ càng lúc càng
được đẩy cao thêm.
Hò khoan hát xạo
là mảnh đất để các bên bộc lộ hết "vốn liếng" tài năng ứng đáp, gây
thích thú cho người đi xem hội sau mỗi câu đối-đáp đốp chát đầy bất ngờ, nhưng
dễ dẫn đến hát tục, hát ngạo... là một ngón đòn "độc", dễ gây mất hoà
khí nên sau này bị dư luận phản đối, các hội hò khoan cũng ít ưa dùng, dần dần
dẫn đến thất truyền.
Trong Hò khoan đối đáp có nhiều công
đoạn thể hiện như những tiểu đoạn, và một buổi hát đối đáp phải đi qua các công
đoạn đó. Thường thì khi mới vào cuộc, hai bên chào hỏi giao đãi, mời mọc xã giao,
đến khi "bén tiếng, quen hơi" thì bắt đầu "bắt chạn" để hát
cùng, gọi là hát "kết", kết bạn, kết nghĩa, kết duyên... nhiều đôi
trai gái phải lòng nhau qua ý lời trao gởi và nên nghĩa vợ chồng. Trong cuộc
hát, lại có nhiều nội dung xen lẫn như hát đố, hát xạo, hát ghẹo, hát huê tình,
nhân ngãi, sinh tử, hát ống, hát nhắn, hát trách, hát chờ...đến khi sắp tàn
cuộc thì hát hẹn, hát xa để chia tay, giã bạn và hẹn nhau vào dịp khác. Sau đây
là một số câu hát tiêu biểu:
Hát chào:
- Gặp nhau một chút nên duyên
Xin mời bên đó cất lên giọng hò
- Ở ngoài xa tôi nghe tiếng bạn hò
Cách sông tôi cũng lội, cách đò tôi cũng sang
Tới đây, tôi chào hết bạn vàng
Chào người thục nữ, chào nàng thuyền quyên
Hát trách:
Gặp anh sao chẳng hỏi, chẳng chào
Hay là em đã có chốn sang giàu hơn anh ?
Nữ:
Tối tăm em còn biết nút mà gài
Chừ đây biết quen hay lạ, biết ai mà chào?
Hát kết:
- Tới đây anh lạ, em cũng lạ
Em bận áo hò cụt, anh bận áo đen dài
Anh nói với em huỷ huỷ hoài hoài
Biểu em đừng kết nghĩa với ai
Để còn kết nghĩa lâu dài với anh
- Ai trắng như bông lòng tôi không chuộng
Thấy em đen dòn làm ruộng tôi thương
Biết rằng dạ có vấn vương
Để tôi cậy mối tìm đường sang thăm
- Bướm đeo dưới bụng cây bần
Anh muốn vô kết nghĩa đá vàng được không ?
- Em còn bán tín, bán nghi
Chưa đem vô dạ, chưa ghi vào lòng
Hát ghẹo:
- Trứng vịt đổ lộn trứng gà
Thấy em má đỏ anh đà muốn hun ( hôn )
- Muốn hun về nói với mẹ cha,
Tiền cheo, heo cưới tới nhà mà hun.
- Nực cười con Kiến kiện con Rồng
Bạn xít ra cho khỏi kẻo chồng ta ghen
- Cọp nằm kẽ đá mài răng
Mấy thằng chồng ghen vặt ông ăn cho rồi
- Ai về nhắn với ông câu
Con cá ăn không giựt, để lâu mất mồi
- Mất mồi này ta câu mồi khác
Cá biển nhiều xao xác thiếu chi ?
Hát nhân ngãi:
- Cọp mà vật mấy ông thầy địa
Yêu mà nhai mấy thầy bói chọn ngày
Trớ trêu họ khéo đặt bày
Mình cứ thương cho hết dạ thì cao dày cũng phải nghe
- Vợ chồng là nghĩa phu thê
Tay ấp má kề, sinh tử có nhau
Chẳng tham của sẵn anh đâu
Tham vì nhân nghĩa năm đầu ngón tay
Bao giờ cho đặng sum vầy?
Giao ca đôi mặt dạ này
mới vui
Hát đố:
Trong
Hò khoan đối đáp lắm khi các bên đưa ra một vế đối ít ai ngờ tới, nội dung câu
đố thường không cao siêu nhưng mưu trí, gọi là "đố mẹo", hát đố cũng
gây sự thích thú khi nội dung câu đố đã được"giải mã" hợp lý hợp
tình.
Đối
:
Bánh dẫu nhiều sao gọi là bánh ít
Chuối con non sao gọi chuối già ? ( tên cây chuối
hột )
Nếu anh mà đối dặng mới thiệt là đáng khen
Đáp:
Sao canh chua loét cũng kêu canh ngọt (rau bồ ngót và lấy từ ý câu " cơm lành, canh
ngọt" )
Cau cao nghệu sao gọi cau lùn? (tên loại cau )
Thuyền quyên mà có hỏi nữa, anh hùng chẳng chịu thua !
Đố lái:
Đây là đặc thù của xứ Quảng. Bên cạnh cái sự
"cãi", nói lái cũng được người Quảng ưa dùng, không những thế, họ còn
vận dụng đưa vào lời hát hết sức tài tình tài tình. Chỉnh vế, chính cả ý tứ.
(chủ yếu là lái âm, lái ý nhưng cũng đôi khi rất chỉnh từ). Nếu
bảo rằng đây là một "nghệ thuật" cũng không ngoa
Đối:
Con cá đối nằm trong cối đá
Mèo đuôi cụt nằm mút đuôi kèo
Anh mà đối đặng, dẫu nghèo em cũng ưng
Đáp:
Con chim mỏ
kiến đậu trên miếng cỏ
Con chim vàng
lông đáp tại vồng lang
Anh đà đối đặng, anh e nàng vong ngôn
Đối:
Con Cua, con Rồng xuôi ngược mấy con?
Em mô mà đối được ,anh mua chăn cho nằm
Đáp:
Con cua, con rồng xuôi ngược có 4 con
Cua, Rồng nói ngược là con Công, con Rùa
Đáp được, đó chịu thua chưa ?
Lựa chăn mô đắp cho vừa thì mua.
Không chịu, người con trai lại trổ mòi lái xạo
bắt từ ý câu đáp của nữ
- Anh hỏi lại em rằng sao người ta bảo là con Công gù ?
Em mô đáp đặng anh đem võng dù anh đón đưa
Tại thành phố Hội An vào định
kỳ đêm 14 âm lịch hàng tháng Tái
hiện Đêm Phố cổ và vào những dịp lễ hội, trong các chương trình Phố đêm, hát Hò khoan là nội dung thường xuyên
được thực hiện trên thuyền nơi bến Sông Hoài do các nghệ nhân Đội Hò khoan ứng đáp đảm trách. Thành phố cũng đã phát động
Liên hoan Hát Hò khoan toàn thành hằng năm để phát hiện và nuôi dưỡng phong
trào. Thật thú vị khi nghe lớp trẻ thể hiện Hát Hò khoan. Bên cạnh những lời hô
hát cũ sưu tầm, các đội hò khoan đã có thêm những sáng tạo mới. Chúng ta hãy
cùng hoà nhập với Sắc Xuân hò khoan trẻ qua đoạn đối đáp " Đố tục, giảng thanh "sau
:
- Nếu mà quả
thiệt bạn rành
Thì trả lời cho rõ ngọn ngành cái nghề
ni:
Xung quanh cỏ mọc xanh rì
Chuyện chi anh xăm xăm tới đó, chân quỳ , chân co
Mon men, hồi hộp tay mò
Đút vô xúc động ngẩn ngơ tâm thần
Rút ra , anh rút dần dần
Anh hể hả vui mừng vì có một con
(người đi mò cua)
- Chị tôi cái bụng to phành
Miệng thì tí tẹo lại chành hai bên
Lúc nào cũng muốn được ăn
Xấu người mà tốt bụng, cứ hối chàng đút vô
Đút vô phải lắc ào ào
Đến khi no bụng bổ nhào nó ra
(Cái lồng binh đất)
Còn đây,
câu đố của Nữ dành cho Nam , họ tiếp cận cái mới một
cách tài tình ít ai ngờ tới.
Em khoe lớp áo xanh đỏ, tím vàng
Lớp vải căng căng nhìn thôi đã thú
Nhòn nhọn như bánh ú, tròn như quả cam
Ngày thì ít ham, đêm về mới thích
Mân mê ve vuốt chẳng nỡ mạnh tay
Sè sẹ mở dây, cưng như cưng trứng.
(Chiếc đèn lồng Phố Hội)
Các nghệ nhân
nói rằng: Nghề hát hò khoan nó cũng có con ma". Nhiều khi
mãi mê đối đáp đến khi trời hừng đông mới chịu tan hội. Và như còn dùng dằng
luyến tiếc, họ bùi ngùi chia tay và hẹn ngày tái ngộ.
Hát xa, hát hẹn:
- Nát lòng đôi ngã phân ly
Bạn về xứ bạn, thiếp quy xứ mình
Chừ đây bóng nọ xa hình
Hội ni sơ ngộ, ta hẹn mình ngày sau
Biển trời non nước gặp nhau
Với điệu hò khoan lưu luyến biết bao nghĩa tình
-Kiểng xa hồ, hồ khô kiểng héo
Lựu xa Đào, Lựu ngã, Đào nghiêng
Gặp nhau chưa đặng một phiên
Chừ đây cách mặt biết ai phiền hơn ai
Cứ trông rồi mốt, rồi mai
Thuyền kia, bến nọ láng lai tâm tình…
Hiện nay, trên địa bàn tỉnh Quảng Nam, so
với Bài chòi thì Hò khoan còn hoạt động rất nhiều nơi tại các
miền quê nhưng những nghệ nhân giỏi giang ngày một vắng bóng mà không có lớp kế
thừa xứng đáng là điều đáng để cho các nhà hoạch định chiến lược Văn hoá văn
nghệ dân gian trăn trở. Một trong những lý do đó, theo một số nghệ nhân cao
tuổi thì khả năng nhạy bén trong ứng đáp ( kiến tại, bắt quờ...) của lớp hậu
sinh kém dần, tính ganh đua cần có để thể hiện, chứng tỏ bản lĩnh không cao.
Hơn nữa, lớp trẻ hiện nay có quá nhiều thú vui mới hiện đại hơn nên không còn
thiết tha với hát hò khoan. Mặt khác, thiếu yếu tố hát xạo cũng làm cho tính
hấp dẫn bị triệt tiêu. Bác Nguyễn Mại ở Điện Bàn (đã mất) và Bà Nguyễn thị Huệ
ở Thanh Hà Hội An, những nghệ nhân từng tham gia thường xuyên tại Đội Hò khoan
ứng đáp ở Hội An lý giải: "Nếu
bảo hát xạo là phi văn hoá, không nên duy trì thì tại sao thơ bà Đoàn thị Điểm,
Hồ Xuân Hương lại được ca tụng ? và nếu nó thô tục thì tại sao những câu hát
xạo Quảng Nam
lại "sống" và đã in trong sách phổ biến để làm gì?". Cũng là một câu hỏi chưa có câu trả
lời xác đáng.
Ngày Xuân, trong không khí trời đất giao hoà,
lòng người cũng rộn rã với Xuân Quê hương, đất nước. Dù không rộn ràng mở hội
vào xuân như các hội Bài chòi, nhưng Hò khoan có một bản sắc riêng, một hương
sắc xuân bốn mùa lan toả, một sức sống xuân qua những câu hò dân dã nhưng đầy
chất trí tuệ, hóm hỉnh, vui tươi. Xứng đáng có chỗ đứng trang trọng và bền chặt
trong lòng công chúng, trong văn hoá dân gian Quảng Nam và trong kho tàng tinh hoa của
dân tộc
.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét