(Tư liệu Ngữ Văn 9)
1. Robinson trước khi ra đảo - phác thảo nhân vật của
thời đại:
Khác với những chuyện phiêu lưu cùng thời, nhân vật
Robinson không phải trải qua nhiều biến cố khác nhau. Chỉ sau một vài sự kiện,
tiểu thuyết dừng lại ở đảo hoang và triển khai phần lớn tác phẩm cho đến kết
thúc. Ngày Robinson đặt chân lên đảo có thể xem là cột mốc ranh giới đánh dấu
bước ngoặt trong cuộc đời và cả trong tính cách của anh.
Robinson đã được xây dựng thành một mẫu người tiêu biểu
của thời đại. Ðây là hình tượng tầng lớp trung lưu ở nước Anh thế kỉ 18 trong
đó có bản thân nhà văn. Nếu có bóng dáng nhà văn trong nhân vật Robinson thì
chủ yếu là ở nhữngđường nét khái quát ấy.
Tài năng và công phu sáng tạo nghệ thuật của Defoe
chính ở chỗ khác nhau giữa người mẫu Selkirk và Robinson. Robinson không phải
là Selkirk- một thuỷ thủ rủi ro lâm nạn- mà là một sự hoá thân. Nhà văn đã biến
anh thuỷ thủ kia thành một hình tượng nghệ thuật, mang tầm vóc và ý nghĩa thời
đại.
Tầng lớp trung lưu ở Anh thế kỉ 18 là một quần thể
phức tạp. Những yếu tố tích cực và tiêu cực, tiến bộ và hạn chế xen kẽ nhau.
Một mặt, tầng lớp này có tâm tư, hoài bão gắn liền với giai cấp tư sản thời ánh
sáng với tất cả những ưu nhựơc điểm do lịch sử qui định. Mặt khác, nó chưa mất
liên hệ với quảng đại nhân dân, và về nhiều mặt nó vẫn cất lên tiếng nói cho
quyền lợi và nguyện vọng của những người lao động. Do đó, Robinson là một hình
tượng phong phú không đơn điệu .
Robinson thích đi phiêu lưu đây đó, bất chấp gian ngu
chẳng phải chỉ như một khách du lịch bình thường ham chuộng phong cảnh lạ, hoặc
một nhà thám hiểm say mê phát kiến khoa học. Các chuyến đi của anh về sau ngày
càng gắn liền với mục đích kinhdoanh với những tàu buôn. Robinson đã “trở thành
một lái buôn thực thụ” như chính anh đã thú nhận. Anh được chia lời lãi, anh
tính toán, càng nhiều lãi càng ham, có khi đã sướng run lên khi nghĩ đến chuyến
hàng có thể sẽ phất to. Thậm chí Robinson còn tham gia cả vào việc buôn bán nô
lệ .
Trong giai đoạn tan rã của chế độ phong kiến, nền kinh
tế công thương nghiệp phát triển mạnh mẽ, thúc đẩy giai cấp tư sản các nứơc đua
nhau đi tìm những thị trường mới.
Thế giới bao la đầy sức hấp dẫn, tầm mắt con người
được mở rộng ngoài khuôn khổ ranh giới quốc gia. Kiểu người ham thích đặt chân
đến những miền núi non xa lạ như Robinson trở thành mẫu ngườicủa thời đại Trong
lịch sử văn học thời kì đó xuất hiện nhiều chuyện phiêu lưu đáp ứng nhu cầu tâm
lí của độc giả. Nhân vật Robinson thuộc về xu hướng đó Tuy nhiên, trung tâm của
tiểu thuyết là chuyện Robinson từ khi đắm tàu dạt vào đảo hoang. Trong những
năm dài dằng dặc sống nơi đây, hình ảnh Robinson cá nhân tư sản bước đầu dấn
thân vào con đường kinh doanh ở phần đầu đã lu mờ và nhường chỗ cho một
Robinson mới với ý nghĩa, tính cách khác hẳn .
2. Robinson
trên đảo hoang- “người lao động chân chính”:
Cảnh ngộ vô cùng gian nan ở hòn đảo không khắc phục
được Robinson. Vừa đặt chân lên đảo, anh bắt tay ngay vào cuộc đấu tranh quyết
liệt với hoàn cảnh, và không chịu để một khoảnh khắc cho những ý nghĩ tuyệt
vọng đen tối len lỏi vào tâm hồn mình. Ðơn độc một thân trước thiên nhiên hoang
vu, nhiều lần phải đương đầu khó khăn tưởng chừng không thể nào khắc phục được,
nhưng anh đã vượt qua tất cả. Trong tay thiếu thốn dụng cụ nên mỗi việc làm cần
thiết để đảm bảo cuộc sống tối thiểu cũng đòi hỏi ở Robinson những nổ lực và ý
chí phi thường quá sức tưởng tượng: vào rừng chặt cây về làm cọc rào quanh nhà
để chống thú dữ, mỗi cọc phải làm mất một ngày, hàng rào phải mất gần cả năm
mới
xong.
Anh
làm một tấm ván mặt bàn mất bốn mươi hai ngày; hai tháng để làm được mấy cái
vại (lu) để đựng lương thực; đóng chiếc thuyền đầu tiên để đựng lương thực;
đóng chiếc thuyền đầu tiên để vựơt biển mất năm tháng. Anh san phẳng mặt đất
thoai thoải từ chỗ đóng xuồng ra mặt nước, nhưng rồi không làm cách nào cho
xuồng hạ thuỷ được. Chỉ còn một cách đào một cái lạch. Anh tính toán rằng muốn
đào được cái lạch đó phải mất trên mười năm. Anh bỏ xuồng, đi tìm một địa điểm
gần sát nước biển, đóng một cái xuồng khác, đào một cái lạch khác, dài nửa dặm
sâu bốn bộ, rộng sáu bộ sẽ hoàn thành trong hai năm. Robinson đẽo một cái cuốc
bằng gỗ, vỡ đất gieo hạt lúa mì (số lúa mì dành trên tàu dành cho chim ăn còn
sót lại). Do thiếu thốn kinh nghiệm trồng lúa lại thêm hạn hán và chim chóc phá hoại, vụ đầu tiên mất
mùa. Anh không sờn lòng, kiên trì làm vụ khác. Cứ như thế từ chỗ may mắn còn
sót lại mười ba hạt lúa sau bốn năm ròng rã, trồng và gặt hái dành dụm từng
hạt, anh đã gặt được một số lúa và được “vuốt ve cái bánh mì đầu tiên “do tự
tay mình làm ra”. “Tôi quyết chí không bao giờ chán nản bất cứ công việc gì “
Robinson kể “Khi đã thấy rằng việc ấy có thể làm được thì tôi làm bằng xong mới
thôi”. Ý nghĩ ấy luôn luôn gắn chặt với Robinson.
Mỗi
nỗ lực của Robinson không chỉ để đáp ứng nhu cầu tối thiểu, anh luôn luôn có ý
thức phấn đấu làm cho đời sống trên đảo ngày một tốt đẹp hơn: chỗ ở phải khang
trang, quần áo mũ phải đàng hoàng, đồ ăn uống tử tế. Khác xa với nguyên mẫu là
thuỷ thủ Selkirk sau bốn năm ở đảo hoang khi được cứu thoát đã gần trở thành
“người rừng”, Robinson diễn ra theo chiều hướng ngược lại.
Không
thể cho rằng nhà văn đã xây dựng Robinson thành một nhân vật phát huy mọi nghị
lực và khả năng để làm giàu, đúng như yêu cầu của thế giới quan tư sản thời đại.
Robinson
chính là sự khẳng định chân lí cao đẹp, niềm tin của nhà văn vào những phẩm
chất chất cao quí của người lao động. Nghị lực và trí tuệ, tinh thần dũng cảm
và khả năng lao động của họ có thể chiến thắng thiên nhiên phục vụ lợi ích con
người. Tầm vóc “Robinson trên đảo hoang” rõ ràng có những phẩm chất cao hơn
giai cấp tư sản ngay cả khi giai cấp này còn có vai trò tiến bộ lịch sử Anh
hưởng thụ thành quả vật chất do chính bàn tay lao động của mình tạo ra , trong khi
giai cấp tư sản thời đó dù có một số đức tính tốt như ý chí khắc phục khó khăn
coi thường nguy hiểm, có công đóng góp vào sư phát triển kinh tế dất nước nhưng
vẫn tồn tại trong quỹ đạo bóc lột sức lao động của người khác, Robinson lại là
người có lòng tốt, sẵn sàng hi sinh thân mình cứu giúp những người hoạn nạn.
Anh đã cứu sống hai cha con thứ Sáu, viên thuyền trưỏng và mấy người da trắng.
Nếu trước khi ra đảo anh đã có lần bán đứa bé da đen Sury cho một thuyền trưởng
Bồ Ðào Nha chuyên môn bán nô lệ thì khi ra đảo anh đã có điều kiện thay đổi
quan niệm về người da đen tên là Thứ Sáu. Tuy anh vẫn coi mình là ông chủ và
người da đen là đầy tớ nhưng tình cảm thật sự của hai người là tình bạn thân
thiết. Và nhờ vậy, cuộc sống mấy năm cuối trên đảo xa xôi bớt đi nỗi cô độc đáng
sợ .
3. Robin son “vừa thống nhất vừa đối lập”:
Tính cách phân đôi của Robinson, con người tư sản và
con người lao động vừa là thống nhất vừa là đối lập, xét theo những góc độ,
bình diện khác nhau. Trong loại truyện phiêu lưu , nhân vật thường chỉ đóng vai
trò dẫn dắt như sọi chỉ đan kết các sự kiện vốn được coi là trung tâm hấp dẫn
người đọc, nhà văn ít quan tâm đến việc khắc hoạ tính cách nhân vật. Còn ở tiểu
thuyết này, Robinson đã được nhà văn dụng công xây dựng thành một hình tượng
nghệ thuật độc đáo. Tính cách phức tạp của Robinson thể hiện trong thế giới
quan, đó là sự giằng co của Thanh giáo (Purism: Sự trong sạch) và ảnh hưởng của
triết học duy vật .Ðó cũng chính là sự giằng co trong tư tưởng tác giả. Vừa đặt
chân lên đảo ít lâu, nhìn thấy những mẫu lúa mì mọc lên lơ thơ trước của lều
anh sung sướng nghĩ có lẽ “trời thương nên sinh ra lúa mì để nuôi sống mình
đây”. Nhưng rồi anh cố gắng nhớ ra có lần đã giũ bao tải đựng lúa vốn dành cho
chim, vịt ăn đã bị chuột nhằn hết chỉ còn toàn trấu .An đã hiểu ra rằng “chẳng
có phép lạ gì xảy ra trong chuyện này cả”. Ðến năm thứ mười tám, khi phát hiện
những dấu chân lạ trên bãi cát anh kinh hoàng như thấy “ma quỷ hiện hình”.
Nhưng chẳng bao lâu tình trang mê tín ấy tan đi, anh phân tích và khẳng định có
người lạ mới xâm nhập hòn đảo, vội vàng củng cố chỗ ở, phòng ngự và chuẩn bị vũ
khí. Tuy vậy đôi khi do cô đơn anh vẫn sống với một tin tôn giáo mơ hồ, tin vào
vai trò của một Ðấng tối cao nào đó đang tồn tại.
Sự tồn tại một tính cách đối lập trong nhân vật
Robinson chỉ rõ sự phân biệt giữa hai giai đoạn. Trước khi ra đảo hoang, anh
mang đậm tính cách tư sản (và sau khi rời đảo trở về tổ quốc). Khi ở trên hòn
đảo vắng vẻ chỉ có Robinson đối diện với thiên nhiên, nơi đây vắng bóng quan hệ
tư bản chủ nghĩa và cả đời sống xã hội anh trở thành Robinson khác tuy vẫn còn
chút Robinson cũ. Như vậy người đọc bắt gặp hai Robinson trong tác phẩm.
Robinson trên đảo mới thực sự chiếm đựoc cảm tình của bạn đọc. Khi nhân vật cởi
bỏ bộ quần áo kì dị và chiếc mũ da dê tự làm để khoác trở lại bộ đồ bình thường
đúng mốt thời trang của người tư sản ở phần cuối của tác phẩm thì cũng là lúc
hứng thú của người đọc tan biến. Trở lại với thời điểm giáp ranh giữa hai
Robinson khi sắp lên định cư ở đảo
hoang.
Anh do dự nhưng cuối cùng quyết định mang theo lên đảo một số tiền vàng nhiều loại lục lọi được trong ngăn kéo
viên thuyền trưởng trên chiếc tàu đắm. Anh đã giữ cẩn thận những đồng tiền vàng
“vô dụng” ấy suốt muời chín năm trời sức sống dai dẳng của Robinson nhà tư sản
tạm ngủ yên, cho đến ngày trở lại với xã hội tư sản Anh nơi chúng được trong
vọng.
Sự
đối lập giữa “hai Robinson” khiến người đọc liên tưởng đến quan điểm triết học
của J.J.Rousseau về con người tự nhiên và con người xã hội. Theo Rousseau, con người
tự nhiên tốt đẹp bao nhiêu thì xã hội làm cho nó hư hỏng bấy nhiêu. Lí thuyết
của ông bắt nguồn từ lòng căm ghét những quan hệ phong kiến và tư sản đang chi
phối xã hội Pháp thế kỉ 18. Còn Defoe với tiểu thuyết của mình thì vừa nghiêng
hẳn sang phía Robinson người lao động nhưng vừa giữ lấy chút tình cảm với
Robinson- nhà doanh nghiệp.
4. Robinson - vai trò cá nhân:
Cuộc sống của Robinson trên đảo hoang
trải qua những chặng đường khác nhau. Thoạt đầu, anh kiếm ăn bằng cách hái quả,
săn bắn chim thú và bắt cá đó là những sản phẩm của thiên nhiên. Sau đó anh thuần dưỡng dê rừng, tiến hành chăn nuôi
trồng trọt. Khi có thêm Thứ Sáu, mối quan hệ giữa hai người giống như quan hệ
thời phong kiến gia trưởng. Vào những năm cuối cùng, trên đảo đã có đông người
hơn. Khi Robinson về nước, bỏ lại số thuỷ thủ phạm tội nổi loạn cướp tàu. Những
người này sẽ phải tổ chức cuộc sống chung. Có nhà nghiên cứu nhận xét rằng, về
mặt nào đó hòn đảo của Robinson gần như diễn lại toàn bộ quá trình của lịch sử
nhân loại từ thượng cổ đến“Khế ước xã hội” hình thức nhà nước lí tưởng của
nhiều triết gia Ánh sáng.
Qua
nhân vật Robinson, tác giả chỉ ra rằng: cơ sở của sự phát triển xã hội không phải
là những chiến công hoặc tài năng của bậc vua chúa tướng lĩnh mà chính là hoạt
động sản xuất của những người lao động bình thường. Ðó là một cái nhìn tiến bộ.
Tuy nhiên, ở đây cũng bộc lộ mặt hạn chế rõ rệt khi nhà văn đánh giá cá nhân
như là xuất phát điểm của lịch sử nhân loại. Ðó cũng là quan điểm của nhiều nhà
triết học, kinh tế học, nhà văn trong thế kỉ 18. Thực tế là từ thời kì xa xưa nhất
con người đã sống thành xã hội. Chỉ sau quá trình phát triển lâu dài của lịch
sử, cá nhân riêng tư mới xuất hiện. Nó là sản phẩm sự tan rã của xã hội phong
kiến và sự hình thành những lực lượng sản xuất mới. Cá nhân là kết quả chứ
không phải là xuất phát điểm của lịch sử.
Dù
D.Defoe có dụng ý hay không, trong Robinson Cruchot, vai trò cá nhân, xét theo
ý nghĩa khách quan của tác phẩm, cũng đã được thổi phồng, khoa trương quá đáng.
Tác phẩm có thể gây ấn tượng lệch lạc ở độc giả, rằng một cá nhân sống tách rời
tập thể, cộng đồng xã hội vẫn có thể tồn tại, phát triển thậm chí phong lưu
nữa. Thời bấy giờ quan điểm đề cao cá nhân đã xuất hiện trong các lĩnh vực
triết học, chính thị học, kinh tế học chính là đặc điểm của giai đoạn tư bản
chủ nghĩa với cơ sở ý thức tự do cạnh tranh. Tron tác phẩm góp phần phê phán
khoa kinh tế chính trị, Karl Marx đã nghĩ tới hình tượng Robinson khi phê phán
khuynh hướng đề cao vai trò cá nhân của các nhà kinh tế học tư sản Người đi săn
và người đánh cá đơn độc và riêng lẻ mà Smith và Ricardo lấy làm điểm xuất phát
khi nghiên cứu chỉ là phần nào những điều tưởng tượng vô vị của thế kỉ 18.
Những
chuyện như kiểu Robinson quyết chẳng phải như mấy nhà nghiên cú lịch sử văn hoá
nào đó vẫn tưởng, là một sự phản ứng giản đơn chống những lối kiểu thái quá và
là một lối quay về một trạng thái tự nhiên đã bị hiểu sai lệch. Chính ra, các
tiểu thuyết đó là một thứ tiên đoán các xã hội tư sản đã phôi thai từ thế kỉ
16, và đến thế kỉ 18 thì đã phi nước đại tới giai đoạn chín muồi Trong cái xã
hội thịnh hành chế dộ cạnh tranh tự do thì cá nhân có vẻ như là đã thoát khỏi
các mối liên hệ tự nhiên v.v, là những cái, trong các thời đại lịch sử trước
kia vẫn làm cho cá nhân thành một bộ phận khăng khít của một tập đoàn nhân laọi
nhất định, rõ rệt. Ðối với các nhà tiên tri thế kỉ 18 Smith và Ricardo vẫn còn
hoàn toàn đứng trên lập trường của họ- thì cá nhân đó của thế kỉ 18 vốn là sản
phẩm, một mặt thì của sự tan ra của các hình thái xã hội phong kiến, mặt khác
thì của các lực lượng sản xuất vừa mới phát triển lên từ thế kỉ 16, - hiện ra
như một lí tưởng đã qua. Nhưng không phải như là một kết quả lịch sử. Vì họ coi
cá nhân đó như là một cái gì tự nhiên, phù hợp với họ về bản chất con người, họ
coi nó không phải là một sản phẩm lịch sử.
Tuy
nhiên bằng hình tượng nghệ thuật, Defoe cũng đã phần nào chỉ ra được rằng con
người không thể tồn tại đơn độc ngoài tập thể xã hội. Bản thân Robinson trên
đảo hoang chắc sẽ không tồn tại được lâu bền nếu không có trong tay các vật
dụng cần thiết như: búa, rìu, đá mài, đinh, thanh sắt, súng dđ¹n, hạt lúa giống
và nhiều thứ khác mà Robinson thu vét từ chiếc tàu đắm vốn là kết quả công sức,
trí tuệ của rất nhiều người.
Ngoài
ra còn phải kể đếnn những thứ trừu tượng không kém quan trọng đó là vốn liếng kinh
nghiệm, kiến thức mà Robinson đã thừa hưởng của cả nhân loại đúc kết và truyền
qua nhiều thế hệ;Nhờ cái vốn đó mà Robinson biết dựng nhà, chống thú dữ, trồng
trọt chăn nuôi và làm nhiều việc khác.
Mặt
hạn chế vừa phân tích trên kia thực ra không che lấp đựơc những giá trị lớn của
cuốn tiểu thuyết. Defoe đã xây dựng được một hình tượng nghệ thuật có sức sống
lâu dài, có ý nghĩa tiến bộ. Ðó là một đóng góp đáng kể là phong phú thêm cho
loại truyện phiêu lưu nói riêng và tiểu thuyết nói chung.
Robinson
là một tác phẩm có tác dụng tốt đặc biệt đối với lứa tuổi thiếu niên. Tiểu thuyết
này bồi dưỡng cho các em tinh thần yêu lao động, kính trọng con người, rèn
luyện cho các em ý chí quyết tâm hành động, khắc phục khó khăn, kiên trì bền
bỉ, dũng cảm tự lực và biết phát huy sáng kiến. Tình tiết của truyện với lối
văn trong sáng, giản dị cũng phù hợp với tuổi trẻ. Nhà triết học, nhà văn Pháp
J.J.Rousseau đánh giá cao Robinson Cruchot.
Ông
viết: “Nhưng vì nhất thiết chúng ta cần đến sách, nên theo ý kiến tôi, có một
cuốn sách cung cấp thiên khái luận hay nhất về giáo dục tự nhiên. Ðó là cuốn
sách đầu tiên em Ê-min của tôi sẽ đọc; trong một thời gian dài, tủ sách của em
chỉ có một cuốn sách duy nhất ấy thôi. Quyển sách kì diệu ấy là cuốn gì thế ?
Aristote chăng?- Không phải, đó là cuốn “Robinson
Cruchot” của Daniel Defoe”.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét