Mộc Nhân
"Thôn hậu thôn tiền đạm
tự yên,
Bán
vô bán hữu tịch dương biên.
Mục
đồng địch lí ngưu quy tận,
Bạch
lộ song song phi hạ điền".
Dịch nghĩa:
"Sau thôn trước thôn đều mờ mờ như khói
phủ
Bên
bóng chiều (cảnh vật) nửa có nửa như không
Trong
tiếng sáo, mục đồng dẫn trâu về hết
Từng
đôi cò trắng hạ cánh xuống đồng".
Dịch thơ:
"Trước xóm sau thôn tựa khói lồng
Bóng
chiều man mác có dường không
Mục
đồng sáo vẳng trâu về hết
Cò
trắng từng đôi liệng xuống đồng".
(Bản dịch Ngô Tất Tố)
1. Câu
thơ mở đầu: Góc cảm nhận cảnh vật là từ xa nên tác giả đã mang đến cho
người đọc một bức tranh toàn cảnh ấn tượng: "Thôn
hậu thôn tiền đạm tự yên" - cấu trúc tiểu đối trong câu thơ với
cặp từ trái nghĩa tiền - hậu kết hợp
với phép điệp ở từ "thôn" đã
tạo dựng không gian mở, gợi một bức tranh đồng quê rộng lớn. Lúc này sương
chiều đã xuống nhiều đang dần phủ kín không gian nên cảnh vật “đạm tự yên” (mờ mờ như khói phủ). Câu thơ không nói tới sương mà người đọc vẫn liên
tưởng được "đạm tự yên" là do sương chiều tựa khói lồng.
2. Câu thơ thư hai tiếp tục gợi tả: "Bán vô bán hữu tịch dương biên"
(Bóng chiều nửa có nửa như không). Câu
thơ tiếp tục sử dụng phép điệp ở từ "bán"
cùng tiểu đối với hai yếu tố đối lập vô – hữu. Trong thời gian và không gian bức tranh đồng quê đã trở
nên mờ ảo hơn nhạt nhoà, nửa hư nửa thực (Bán vô bán hữu). Ngoài ra hai yếu tố “hữu – vô” ẩn chứa khái niệm triết
học của Đạo Lão: “Thiên hạ vạn vật sinh ư hữu, hữu sinh
ư vô” (vạn vật trong thiên hạ đều sinh ra từ hữu, hữu sinh
ra từ vô): trong cái “vô” có cái “hữu”; trong cái “hữu” lại có cái “vô”:
cũng gần với vũ trụ quan nhà Phật: "Sắc
tức thị không, không tức thị sắc" (Kinh Bát Nhã): "sắc" và "không" là hai trạng thái của
các sự vật hiện tượng, sắc là có hình
tướng, không là không hình tướng,
không thấy được. Không sanh ra Sắc, rồi Sắc trở lại thành Không. Vạn vật
cứ thế biến đổi một cách tuần hoàn. Lẽ “hữu
- vô” của tạo hoá luôn huyền diệu !
Cảnh
sắc trời chiều lúc hoàng hôn (vãn cảnh) được nhà thơ dùng thủ pháp “thực giả, hư chi; hư giả, thực chi” (dùng
cái hư và cái thực làm nổi bật nhau) bởi đặc trưng của thơ thiền là gợi tả cái
thần của cảnh vật nhiều hơn là khắc họa cảnh vật.
Như
vậy là chỉ qua 2 câu thơ đầu, ta đã thấy Trần Nhân Tông có một cặp mắt quan sát
rất tinh tế, vừa có một tâm hồn thi sĩ, vừa có tài năng gợi tả của một họa sĩ. Cảnh
vật được nhìn qua cảm quan của Thi sĩ - Thiền nhân nên thấm đẫm Thiền vị.
3. Câu thơ thứ ba miêu tả hình ảnh cận cảnh: "Mục đồng địch lí ngưu quy
tận" (Trong tiếng sáo của mục
đồng, trâu đã về hết). Trong bức tranh đồng quê
nửa
có nửa như không ấy đã xuất hiện hình ảnh đàn trâu thong thả về chuồng
trong tiếng sáo dặt dìu hồn nhiên của mục đồng là điểm nhấn của cảnh vật hết
sức tinh tế và thấm đẫm tình quê. Có thể nhìn câu thơ dưới nhãn quan nhà Phật
để thấy được "Mục đồng địch lí" (tiếng
sáo mục đồng) biểu trưng cho cái tâm bình lặng, trong sáng không bị vẫn đục và "ngưu quy tận" (đàn trâu quay
về) là nẻo về của Thiền tâm, chân tánh của con người khi đã ngộ lẽ "hữu -
vô" của cuộc đời.
4. Câu thơ cuối: "Bạch lộ song song phi hạ điền" miêu tả hình ảnh từng đôi cò trắng hạ cánh
xuống đồng làm nên bức tranh đồng quê tuyệt đẹp. Cánh cò bay xuống đồng “phi hạ điền” chứ không phải là "thướng thiên thanh" (bay vút
trời xanh) nói lên niềm thiết tha tình nghĩa với quê hương. Tâm hồn của vị vua
thật đáng quý biết bao!
Từ
thi sĩ đến thiền nhân, tác giả đã cảm nhận cảnh vật từ toàn cảnh đến cận cảnh,
từ sau đến trước, từ hư đến thực, từ cao đến thấp, từ tĩnh đến động, từ ngoại
cảnh đến tâm thiền ... Tất cả đã dựng lên được một không gian nghệ thuật đa
chiều, gợi nhiều liên tưởng và ẩn chứa nhiều tư tưởng thiền nhân.
Bài
thơ ngắn gọn, xúc tích nhưng đã phác họa được một bức tranh sinh động, có phông
nền, đường nét, màu sắc, hình khối. Một trong những yếu tố tạo nên nhịp điệu êm
ái, hài hòa của bài thơ là việc kết hợp điệp ngữ và tiểu đối.
Bài
thơ tả cảnh làng quê đơn sơ, thanh bình song lại có sức chứa đựng những cung
bậc tình cảm hết sức phong phú của con người đời thường đồng thời mang theo cảm
hứng của thiền nhân nên có ý nghĩa sâu rộng. Đó là bức tranh thấm đẫm tình đời,
tình người, với tâm hồn khát khao hoà nhập vào thiên nhiên, vào cuộc sống đồng
thời thi nhân đã gửi gắm vào đó những chiêm nghiệm về lẽ vô thường của con
người trước cái hằng thường của vũ trụ bởi “nhà
thơ là thiền sư, con mắt thế tục nhưng tâm thiền” (Lê Trí Viễn) nên "Thiên
Trường vãn vọng" là một tuyệt tác “dĩ
thi ngụ thiền, dĩ Thiền thuyết thi” (Dùng thơ để ngụ Thiền, dùng Thiền nói
thơ).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét