Lê Đức Thịnh
Trong
văn chương cổ điển có những “dấu hiệu
chung” gọi là “mã nghệ thuật” được
khái quát thành “thi pháp”. “Đăng
cao” (lên cao) là một trong nhiều thi pháp của Đường thi tượng trung
cho không gian nghệ thuật gắn với một lý tưởng cao cả.
Đỗ
Phủ có bài thơ “Đăng cao” (Lên cao), Lí Bạch với bài “Độc tọa Kính
Đình sơn” (Ngồi một mình trên đỉnh núi Kính Đình), Trần Tử Ngang viết “Đăng
U châu đài ca” (Bài ca trèo lên đài U châu)… là những tác phẩm tiêu biểu
cho thi pháp không gian nghệ thuật mang tầm vũ trụ trong thơ cổ điển.
“Phong cấp, thiên cao,
viên khiếu ai,
Chử thanh, sa bạch, điểu
phi hồi.
Vô biên lạc mộc
tiêu tiêu há,
Bất tận trường
giang cổn cổn lai.
Vạn lý bi thu
thường tác khách,
Bách niên đa bệnh
độc đăng đài.
Gian nan khổ hận
phồn sương mấn,
Lạo đảo tân đình
trọc tửu bôi”.
Dịch nghĩa: “Lên cao”
“Gió
thổi, trời cao, tiếng vượn kêu rầu rĩ,
Bến nước trong, làn cát trắng, chim bay liệng vòng.
Ngàn cây bát ngát lá rụng
xào xạc,
Dòng sông dằng dặc, nước
cuồn cuộn trôi.
Muôn dặm thu buồn, xót
thân thường nơi đất khách,
Suốt đời quặt quẹo, một
mình lên ngắm trên đài.
Gian khổ uất hận, mái
tóc thêm ngả màu sương,
Lận đận vì mang nhiều bệnh
mới phải ngừng chén rượu đục”.
“Đăng
cao” được
Đỗ Phủ sáng tác vào năm 767. Bấy giờ nhà thơ đã rời Thành Đô đem gia đình phiêu
bạt qua nhiều nơi rồi đến đất Quí Châu. Lúc này ông đã già, sống nghèo khổ, bị
bỏ rơi, bệnh tật nhà thơ phải ngừng uống rượu. Ông đã lên một ngôi chùa trên
núi Hoàng Sơn và đã viết bài “Đăng
cao”. Như vậy Đăng cao là một trong những bài thơ cuối đời của Đỗ
Phủ.
Bốn câu đầu thiên về tả cảnh với các hình ảnh cổ điển: gió, trời, bến nước, làn
cát, cây rừng, dòng sông, chim bay vượn hót. Tầm nhìn của Đỗ Phủ lúc này rất rộng,
điểm nhìn ở trên cao, giữa không gian để có thể nghe được các thanh âm của đất
trời đúng như đầu đề của bài thơ.
Thiên nhiên ở điểm nhìn này phóng khoáng, hùng tráng, nhiều âm thanh, màu sắc
nhưng đượm u buồn qua tiếng “viên
khiếu ai”, “Vô biên lạc mộc tiêu tiêu hạ”. Qua bức tranh cảnh vật như vậy
ta có thể nhận ra nỗi buồn của lòng người:
“Vạn lý bi thu thường tác khách
Bách niên đa bệnh độc đăng đài”
Một
cuộc đời quanh năm lưu lạc vì chiến tranh và đói khát nên hàng vạn dặm đường mà
mình đã phiêu bạt như những chìm đắm trong nỗi buồn của một mùa thu dằng dặc.
Từ
sự “lên cao” cụ thể nhà thơ đã chuyển
sang “lên cao” tinh thần, tâm hồn của
ngươì tri thiên mệnh. Nhà thơ thấy mình đang đến mùa thu cuộc đời, ở đỉnh điểm “Vạn lý bi thu” nên ông đã thoát ra khỏi
nỗi đau thể xác mà thể hiện một tâm hồn, cốt cách cao đẹp:
“Gian nan khổ hận phồn
sương mấn,
Lạo đảo tân đình trọc tửu
bôi”.
(Gian khổ uất hận, mái
tóc thêm ngả màu sương,
Lận đận vì mang nhiều bệnh
mới phải ngừng chén rượu đục).
Sống
trong sầu khổ, nhà thơ chỉ còn lại một niềm vui là được nâng lên một “trọc tửu bôi” mà cũng không được. Vậy
nên nhà thơ chỉ còn đau buồn và khổ hận!
Đỗ
Phủ đã “đăng cao” giữa thiên nhiên để
thấy mình cô độc giữa cuộc đời.
2.
“Độc tọa Kính Đình sơn” của Lý Bạch
“Chúng điểu cao phi tận,
Cô vân độc khứ nhàn.
Tương khan lưỡng bất yếm,
Chỉ hữu Kính Đình san.”
Dịch nghĩa: “Một mình trên núi
Kính Đình”
“Chim bay lên cao hết,
Đám mây lẻ loi một mình lững lờ trôi.
Cả hai trông nhau mãi mà không chán
Chỉ có núi Kính Đình và ta thôi”.
Nhà thơ đặt mình giữa trung tâm vũ trụ để giao hòa cùng thiên nhiên: đàn chim,
mây trời, núi non… và gửi gắm một nỗi buồn nhân thế đến xót xa.
Hai
đối tượng người và núi Kính Đình ngắm nhau trong không gian và cảnh vật tĩnh lặng
“Chúng điểu cao phi tận/ Cô vân độc khứ
nhàn” (Đàn chim bay đi hết/ mây cũng trở nên đơn độc).
“Tương khan lưỡng bất yếm” - núi và
người trở thành đôi bạn tri kỷ, tri âm, trao gửi cho nhau để cùng cảm thông,
chia sẻ nỗi sầu nhân thế, vì vậy trên đời này rốt lại “Chỉ hữu Kính Đình Sơn” (Chỉ có ta với núi Kính Đình mà thôi).
3. “Đăng U Châu đài ca” của Trần Tử Ngang
Trần Tử Ngang (661 - 702) là nhà thơ lớn thời Thịnh Ðường tên tự là Bá Ngọc,
người đất Xạ Hồng, phủ Từ Châu (hiện là tỉnh Tứ Xuyên ). Ông đậu tiến sĩ lúc 24
tuổi năm 684 (đời Đường Trung Tông) làm đại quan trong triều Võ Tắc Thiên, tính
tình khẳng khái nên về sau ông bị bọn tiểu nhân vu tội bắt giam và chết trong
ngục.
Trần Tử Ngang có giai thoại nổi tiếng về việc đập đàn: Khi đến Trường An, lúc
này không ai biết đến, ông liền bỏ ra một ngàn quan tiền, mua một cây đàn quí,
rồi mời mọi người đến dự tiệc, nghe nhạc. Khi mọi người tề tựu đông đủ và háo hức
chờ nghe nhạc. Ông đứng lên nói: Tôi là Trần Tử Ngang người đất Thục, có trăm
quyển văn, rong ruổi kinh sư, mà địa vị vẫn tầm thường giữa nơi bụi bậm, không
ai biết đến. Nhạc này là của kẻ hèn đâu đáng lưu tâm? Nói đoạn ông đập tan cây
đàn trước sự sững sờ, kinh ngạc của nhiều người. Kế đó, ông đem các cuốn văn ra
tặng cho cử tọa. Trong một ngày danh tiếng của ông chấn động khắp kinh thành, mọi
người ai cũng biết tiếng.
Sự nghiệp văn chương của ông gắn liền với bài thơ “Đăng U Châu đài ca”:
“Tiền bất kiến cổ nhân
Hậu bất kiến lai giả
Niệm thiên địa chi du du
Độc thương nhiên nhi thế hạ ”
Dịch nghĩa : “Bài ca lên
đài U Châu”
“Ngó
trước không thấy Người xưa
Nhìn về sau, chưa thấy Người mới tới
Nghĩ trời đất mênh mông chơi vơi
Một mình thương cảm, bỗng nhiên rơi lệ”.
Nhà thơ lên đài cao để tìm một “cổ nhân” –
tức là một người lí tưởng, tri kỉ biết lễ hiền hạ sĩ nhưng chẳng thấy có ai: “Tiền bất kiến cổ nhân”.
Nhà thơ lại hy vọng sẽ có một “lai
giả” - sẽ là nhân vật lý tưởng cho thời đại mới nhưng “Hậu bất kiến lai giả” ! Nhìn mãi
trước sau chưa thấy ai nên rơi thầm nước mắt.
Điểm nhìn của nhà thơ là trên đài cao, khoảng giữa Trời và Đất, trung tâm vũ trụ,
giữa quá khứ và tương lai. Với điểm nhìn ấy, nhà thơ hiện ra như một nhân vật
có tầm vóc vũ trụ, đứng giữa đất trời “đầu đội trời, chân đạp đất”.
Theo cổ thư thì “vũ” là không gian không cùng, “trụ” là thời gian vô tận; nhà
thơ đã đặt cảm xúc của mình giữa “vũ” (thiên – địa) và “trụ” (tiền – hậu) nên
cái tôi cá nhân giờ đây hòa nhập với vũ trụ. Đó là tiếng nói của một tiểu vũ trụ
giữa mênh mang đất trời, giữa thời gian tiền - hậu vô thủy vô chung.
Trong khoảng thời gian và không gian bao la vô tận đó, nhà thơ khao khát tìm lại
hôm qua, vươn tới ngày mai; vượt qua thời gian và không gian nhưng trước “thiên địa chi du du”, tiểu vũ trụ ấy chỉ
biết “Độc thương nhiên nhi thế hạ” -
cảm thương bất lực và rơi lệ vào thiên cổ.
Nhà thơ khóc vì nhận chân về vị trí của mình trong vũ trụ (thời gian và không
gian).
Có thể hình dung giữa mênh mông đất trời là nỗi buồn của thi nhân, ôm một hoài
bão lớn lao, mà cảm thấy cô độc bi thương.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét