Nguyễn Hưng Quốc
Trong giới cầm
bút Việt Nam tại Úc cũng như ở hải ngoại nói chung, nhiều người vừa sáng tác vừa
dịch thuật. Hỏi lý do, nhiều người đáp: dịch để học hỏi. Nhưng theo tôi, đó
không phải là lý do chính: Người ta có thể học hỏi về tư tưởng và kỹ thuật viết
lách bằng cách đọc thẳng từ trong nguyên tác chứ không nhất thiết phải dịch
sang tiếng Việt.
Theo tôi, khi
quyết định dịch một tác phẩm văn học từ một ngôn ngữ nào đó sang tiếng mẹ đẻ của
mình, có lẽ người ta xuất phát từ một nhu cầu muốn ngắm nghía cái đẹp của tác
phẩm ấy từ góc độ tiếng mẹ đẻ của mình. Nhu cầu ấy ở đâu cũng có, nhưng trong
môi trường song ngữ có lẽ nó dễ nẩy nở hơn.
Tôi mường tượng: Đọc một bài thơ tiếng
Anh, người ta thấy hay, từ đó, nảy sinh ra một thắc mắc: những cái hay ấy sẽ
như thế nào nếu được chuyển dịch sang tiếng Việt? Từ thắc mắc đến hành động dịch
thực sự, người ta đối diện với một thử thách mới: đi tìm cái tương đương. Trong
nhiều trường hợp, với tiếng Anh: người ta hiểu; với tiếng Việt: người ta biết;
nhưng người ta lại không thể, hoặc mất rất nhiều thì giờ để có thể, tìm ra điểm
nối giữa cái điều người ta hiểu và cái điều người ta biết, từ đó, tìm ra được một
cách dịch có thể chấp nhận được.
Tôi dùng chữ “có
thể chấp nhận được” chứ không phải chữ “hoàn hảo”. Không bao giờ có bản dịch
hoàn hảo. Jacques Derrida cho “một mặt, không có gì không dịch được, nhưng
mặt khác, mọi thứ đều không thể dịch; dịch là tên gọi khác của sự bất khả”.
Lý do là vì không có sự tương đương tuyệt đối. Theo Umberto Eco, “từ góc độ
thơ, không có trường hợp nào mà hai cách nói khác nhau có thể được xem là tương
đương.” Giữa ngôn ngữ này và ngôn ngữ khác bao giờ cũng có những độ lệch nhất
định.
Theo tôi, có mấy
độ lệch chính. Một, lệch ở từ vựng: Mỗi ngôn ngữ có một hệ thống từ vựng phản
ánh một cách chia cắt thế giới riêng. Hai, lệch ở cú pháp: Cú pháp không phải
chỉ là một cách tổ chức câu mà còn là một cách phạm trù hoá hiện thực. Ba, lệch
ở tu từ: Mỗi ngôn ngữ có những cách biện pháp tu từ, từ cách điệp âm, điệp vần
đến cách so sánh, ẩn dụ và hoán dụ, vừa giống lại vừa không giống nhau hẳn. Bốn,
lệch ở tính liên văn bản: Mỗi từ và mỗi ẩn dụ đều có tính lịch sử, ở đó, nó có
cuộc sống riêng với các quan hệ với nhiều từ và nhiều ẩn dụ khác, từ đó, nó được
vây bọc bởi một khí quyển riêng và gợi lên những trường liên tưởng riêng.
Trong văn học, đặc
biệt trong thơ, ngôn ngữ còn có một đặc điểm nữa: tính nhạc điệu. Nhạc điệu nằm,
một phần, trong bản thân từng từ, phần khác, nhiều hơn, ở sự kết hợp của các từ.
Chuyển từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác, dù muốn hay không, người ta cũng phá
vỡ sự kết hợp ấy, do đó, cũng phá vỡ nhạc tính của câu hay của đoạn, và từ đó,
của cả bài. Với các độ lệch trên, người ta có thể tìm cách bù trừ được. Với nhạc
điệu, khi dịch, người ta chỉ có hai lựa chọn và lựa chọn nào cũng bất toàn: hoặc
bỏ hẳn (chỉ giữ ý) hoặc thay thế bằng một thứ nhạc điệu khác tương ứng trong
ngôn ngữ đích (target language).
Thay thế, thật
ra, cũng là một hình thức sáng tạo. Chính vì thế Octavio Paz mới cho “chỉ
các nhà thơ mới nên dịch thơ; [nhưng] trên thực tế, các nhà thơ hiếm khi là dịch
giả giỏi. Họ hầu như chỉ dùng bài thơ ngoại quốc như một điểm khởi đầu cho một
bài thơ riêng của họ.” Cũng chính vì thế, nhiều người cho văn học, đặc biệt
là thơ, không thể dịch được. Nhưng ở đây lại có một nghịch lý: Biết là không thể
dịch được, nhưng người ta vẫn phải dịch. Khi trên thế giới có cả mấy ngàn ngôn
ngữ khác nhau, trong đó, có cả mấy chục ngôn ngữ có truyền thống thi ca lớn, những
mất mát do việc từ chối dịch hoặc đọc các bản dịch thơ chắc chắn là lớn hơn việc
chấp nhận các bản dịch thơ bất toàn rất nhiều.
Dịch, do đó, vừa
là điều cần thiết vừa là một quyết định đối diện với cái bất khả. Dịch, cũng do
đó, là một cách chấp nhận những giới hạn, không những giới hạn của ngôn ngữ mà
còn những giới hạn của chính mình: Với công việc dịch, người ta đi từ kinh nghiệm
về cái bất khả đến kinh nghiệm về sự bất toàn. Trước những giới hạn ấy, người
ta phải biết tương nhượng: nhường cái này để đạt được cái khác. Các lý thuyết dịch
thuật thường nêu lên hai kiểu tương nhượng chính: hoặc chọn con đường “ngoại
hoá” (foreignization), tức giữ nguyên phong cách và sau nó, văn hoá của văn bản
gốc (source-oriented), hoặc “nội hoá” (domestication) nó để phù hợp với văn hoá
đích và với thị hiếu thẩm mỹ của những người tiếp nhận bản dịch
(target-oriented).
Cần lưu ý, nói
theo Umberto Eco, với mỗi văn bản, người ta cần có một giải pháp riêng chứ
không có nguyên tắc chung nhất và bất biến nào để căn cứ vào đó, dịch giả lựa
chọn cả. Hắn phải quyết định ngả theo hướng này hoặc hướng khác tuỳ từng trường
hợp cụ thể. Trong trường hợp nào thì dịch cũng là một cách đánh đu giữa hai
ngôn ngữ và, hơn nữa, giữa hai văn hoá. Công việc đánh đu ấy, ở người mới bắt đầu
dịch, khá ì ạch; ở người giỏi và giàu kinh nghiệm, thoải mái hơn; nhưng với ai
thì bản chất của vấn đề vẫn là một: Dịch, một mặt, là tiến hành một cuộc đàm
phán văn hoá, ở đó, người ta đối chiếu hai ngôn ngữ ở những khía cạnh và những
góc độ khác nhau để lựa chọn một cách dịch được xem là tối ưu; mặt khác, như là
hệ quả của sự đàm phán ấy, dịch trở thành một động tác xuyên ngôn ngữ, xuyên
văn hoá, và thậm chí, xuyên quốc gia.
***
DỊCH NHƯ MỘT SỐ PHẬN VÀ MỘT CƠ HỘI
CỦA NGƯỜI LƯU VONG
Trong bài “Dịch
thuật: đi tìm sự tương đương”, tôi đề cập đến việc các văn bản. Nhưng dịch
không nhất thiết phải gắn liền với văn bản. Trong bài “On linguistic aspects of
translation”, Roman Jakobson phân biệt ba loại dịch: Dịch nội ngữ
(intralingual translation) tức chuyển từ cách diễn đạt này sang cách diễn đạt
khác trong cùng một ngôn ngữ; dịch liên ngữ (interlingual translation) tức chuyển
từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác; và dịch liên-ký hiệu (intersemiotic
translation) tức chuyển từ một văn bản viết sang một hệ thống ký hiệu phi từ vựng
(nonverbal sign system) khác, ví dụ, chuyển thể một tác phẩm văn học thành phim
hay kịch.
Tập trung vào
cách dịch thứ nhất, mở đầu bài tiểu luận “Translation: Literature and Letters”,
nhà thơ Octavio Paz viết: “Khi chúng ta học nói, chúng ta đang học dịch:
Khi đứa bé hỏi mẹ nó ý nghĩa của một từ, nó đang yêu cầu mẹ nó dịch một từ lạ
sang một từ đơn giản hơn mà nó đã biết.” Học nói, ngay cả nói tiếng mẹ đẻ,
là dịch. Đọc, bất kể là đọc thứ tiếng gì, lại càng là dịch. Từ đó, đi xa hơn,
giới nghiên cứu cho văn hoá, tự bản chất, là dịch thuật (culture is translation).
Cũng có thể nói sống là dịch (living is translating).
Như vậy, sự khác
biệt ở phạm vi cá nhân chỉ là ở mức độ. So với người Việt ở trong nước, người
Việt ở nước ngoài sống với động tác dịch thường xuyên hơn: Họ sống-như-một-cách-dịch.
So với các dịch giả ở trong nước, những người dịch-để-sống, các dịch giả ở hải
ngoại dịch-như-một-cách-sống. So với đồng hương của mình ở hải ngoại, các dịch
giả đóng cả hai vai sống-như-một-cách-dịch và dịch-như-một-cách-sống cùng lúc.
Trong mối quan hệ biện chứng giữa dịch-như-một-cách-sống và sống-như-một-cách-dịch
như vậy, dịch chỉ là một cách văn bản hoá (textualization) cuộc sống của chính
mình. Từ đó, có thể nói, qua việc dịch, người cầm bút lưu vong tiết lộ tâm thế
và cả bản thể của mình rõ không kém gì qua sáng tác. Theo tôi, để nhận diện một
nền văn học, đối tượng cần quan sát trước tiên là sáng tác; nhưng để nhận diện
tâm thức một cộng đồng lưu vong, cả sáng tác và dịch thuật đều có vai trò ngang
nhau.
Dịch không những
là một cách văn bản hoá cuộc sống, dịch còn là một cách tự giác hoá kinh nghiệm
vượt qua biên giới ngôn ngữ và văn hoá của mình. Mục tiêu cuối cùng của công việc
dịch thuật là tìm kiếm sự tương đương, dù, như đã phân tích trong bài “Dịch thuật:
đi tìm sự tương đương”, đó chỉ là những sự tương đương đầy khập khiễng. Nhưng
cái mà người ta nhận thấy, một cách thấm thía nhất, trong quá trình đi tìm sự
tương đương ấy, lại là những sự khác biệt. Dịch, do đó, là một cách kinh nghiệm
về cái khác.
Lưu vong, tự nó,
đã là một kinh nghiệm về cái khác bằng cách chính mình biến thành một cái khác.
Đã lưu vong mà còn dịch nữa, kinh nghiệm về cái khác ấy càng trở thành sâu sắc
hơn. Sâu sắc đến độ tiếng mẹ đẻ của mình, cái ngôn ngữ ngỡ là gần gũi nhất của
mình, gần gũi như là chính bản thân mình, cũng có khả năng trở thành một cái
khác. Dịch, do đó, trở thành một cách phân thân để nhìn ngôn ngữ từ bên ngoài.
Về phương diện nhận thức, cái nhìn từ bên ngoài ấy khiến người ta, giới hạn
trong phạm vi ngôn ngữ, dễ khám phá ra cả những ưu điểm lẫn những khuyết điểm của
tiếng mẹ đẻ; mở rộng sang phạm vi mỹ học, có khả năng phát hiện ra những cái đẹp
khác với truyền thống; cuối cùng, trong phạm vi sáng tác, dễ có khuynh hướng thử
nghiệm những cách viết, hoặc ít nhất, cách diễn tả mới.
Từ lâu, trên thế
giới, người ta đã nhận ra những tác động tích cực của dịch thuật đối với ngôn
ngữ đích (target language). Nhiều người cho bản dịch Kinh Thánh của Martin
Luther đã làm thay đổi tiếng Đức; các bản dịch tác phẩm của Martin
Heidegger đã làm thay đổi phong cách triết học của Pháp; bản dịch các tác
phẩm văn học Mỹ trước Đệ nhị thế chiến đã làm thay đổi phong cách tự sự, từ đó,
dẫn đến sự ra đời của chủ nghĩa hiện thực trong văn học Ý. Ở Việt Nam, điều
đó lại càng rõ: Hai dấu mốc quan trọng nhất trong lịch sử văn học Việt Nam đều
gắn liền với hai lần tiếp xúc với văn học ngoại quốc: Một lần, với văn học bằng
chữ Hán diễn ra trong suốt thời Trung đại; và lần khác, với văn học Pháp diễn
ra vào cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20. Trong bài tiểu luận “Một thời đại trong
thi ca”, mở đầu cuốnThi nhân Việt Nam, Hoài Thanh cho các bản dịch thơ
Pháp vốn “không niêm, không luật, không hạn chữ, hạn câu” của Nguyễn Văn Vĩnh là một trong những tiền đề quan trọng nhất dẫn đến việc hình thành
phong trào Thơ Mới.
Đó là tác động của
dịch thuật đối với cả ngôn ngữ đích. Còn tác động của nó đối với từng người cầm
bút, nhất là những người cầm bút vừa sáng tác vừa dịch thuật? Theo tôi, đó là một
đề tài thú vị, nhưng tiếc, chưa được nghiên cứu nhiều, kể cả ở Tây phương. Ở
đây, không có điều kiện để đi sâu vào vấn đề ấy, tôi chỉ tập trung vào một điểm:
Tâm trạng lưu vong. Dịch là một chọn lựa cách thế sống: đong đưa trên biên giới.
(Nguồn: blog
Nguyễn Hưng Quốc)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét