Lê Đức Thịnh
(Bài đã đăng trên một số báo và đặc san Xuân ĐINH DẬU - 2017)
Con gà là một dấu tích
của văn minh và văn hóa nông nghiệp ở Việt Nam được người thuần hóa từ lâu và
nó đã gắn bó mật thiết với cuộc sống về nhiều mặt: về vật chất gà là một trong lục
súc quan trọng giúp nuôi sống con người; về tinh thần gà biểu tượng cho nhiều
vẻ đẹp hay liên hệ đến những phẩm chất giá trị, trong văn hóa phương Đông, gà
là một trong 12 con giáp với khái niệm “Dậu”; về tâm linh từ thời cổ
đại gà đã là một loài vật linh thiêng gắn chặt với nhiều hệ thống tín ngưỡng
và thờ cúng tôn giáo hay với tư cách là một trong nhiều con vật hiến
tế (tam sinh).
Đặc biệt về mặt ngôn
ngữ, con gà xuất hiện nhiều trong ngôn ngữ dân gian với các tầng nghĩa ẩn dụ
khác nhau có cả mặt tích cực và mặt tiêu cực.
Cũng cần nói rõ rằng sự
xuất hiện của tên gọi các loài vật trong hệ thống từ ghép nói về đặc điểm, tính
cách con người cho thấy quan niệm, cách nhìn của người Việt Nam trong mối quan
hệ giữa người với vật. Ở bề sâu ngôn ngữ là văn hóa và thái độ tình cảm của con
người với vật. Vậy nên trên cơ thể con người chỗ nào cũng có yếu tố con vật
dùng để nhận định, đánh giá, gọi tên các trạng huống của người: nào là “đầu trâu mặt ngựa”, “đầu voi đuôi chuôt”, “mắt phượng mày ngài”, “râu hùm hàm én”, “miệng hùm gan sứa”, “thắt
đáy lưng ong”, “thẳng ruột ngựa”,
“lòng lang dạ sói”…
Con gà cũng không phải
là ngoại lệ. Trong ngôn ngữ, gà là một trong những chữ có khả năng chuyển nghĩa
đa dạng, qua những đặc điểm sinh học của gà để tìm thấy ở đó những mối quan hệ
phong phú và cũng lắm phức tạp giữa người với người, người với đời sống.
Hãy thử quan sát các yếu
tố “gà” trong đời sống ngôn ngữ: miêu
tả tóc thì có “tóc đuôi gà”, nói về
trạng thái nhận thức hạn chế có “gà mờ”,
trạng thái quan sát không tỉnh táo có “quáng
gà”, trạng thái phản xạ có “nổi da
gà”, về bệnh tật có dạng “sùi mào gà”,
khi ai đó làm hỏng việc hay làm không đạt yêu cầu thì có câu mắng nhiếc là “đồ gà toi”, “đồ gà rù”; nói về người ngủ không đúng lúc đúng nơi thì có “ngủ gà ngủ gật”; khi mắng kẻ làm điều
bậy bạ thì “đồ gà mắc dịch”; mẹo vặt
dân gian gọi là “mẹo cức gà” ; trong
báo chí có cụm từ “đá gà chết” để nói
về một bài báo đăng tải sự việc không còn tính thời sự; khi ca ngợi ai đó xứng
với thế hệ đi trước thì tôn là “gà nòi”…
để châm chích người đàn bà tiếm dụng hay làm phần việc của đàn ông thì gọi là “gà mái gáy”…
Điều thú vị thứ nhất là
sự chuyển nghĩa từ gà bao gồm cả ba
trạng thái: tích cực (khen), tiêu cực (chê) và trung tính (khen chê đều nhẹ
nhàng vừa phải); điều thú vị thứ hai là trong cùng một trường nghĩa thì mức độ
chuyển nghĩa khi dùng hình tượng gà để diễn tả thì dù có chê bai, mỉa mai nhưng
sắc thái châm chích cũng khá nhẹ nhàng, có khi kèm theo một nụ cười đầy cảm
thông tha thứ chứ không gay gắt như khi dùng từ ngữ có chứa các yếu tố con vật
khác. Chẳng hạn như nói đến cọp là nói đến sự dữ dằn; nói đến cáo là nói đến
những mưu mô thâm độc; nói đến heo là nói đến sự dơ bẩn kinh tởm… nhưng gà thì
mang sắc thái trung tính. Ví dụ trong trường nghĩa nói về nhận thức kém thì lời mắng “đồ
gà rù”, “gà mờ” thì nghe vẫn dễ chịu hơn là mắng “ngu như bò”, “ngu như heo”; hay trong trường nghĩa mắng chửi thì lời mắng “đồ gà mắc dịch” nghe dễ chịu hơn là “đồ chó má”, “đồ dê xồm”…
Có thể hình ảnh hiên
ngang của chú gà trống cất tiếng gáy vang lúc bình minh hay hình ảnh con gà mái
dẫn đàn con kiếm mồi cần cù, hiền lành gần giũ với đời sống luôn gây thiện cảm
cho con người nên khi có những phản ứng tiêu cực “đánh
chó đuổi gà” dân gian nhẹ tay hơn chăng.
Gà được xem là hình ảnh của những người
dân quê thật thà, chất phác, chịu khó và đa nhân cách. Trong những bức tranh
dân gian Đông Hồ về đề tài con gà, các nghệ nhân luôn dành màu sắc đường nét
tươi tắn để gởi gắm những ước mơ của
nhân dân về một cuộc sống ấm no, sung túc. Trong quá trình ẩn dụ hoá, gà không
còn là con gia cầm cụ thể nữa mà đã trở thành những biểu tượng. Với gà trống
thì nó là biểu tượng cho 5 yếu tố: văn
(dáng vẻ đẹp), võ (hùng dũng hiên
ngang nhanh nhẹn), dũng (dám đương
đầu), nhân (có ăn thì gọi đàn đến), tín (thức canh đêm và dậy đúng
giờ); với gà mái thì nó là biểu tượng cho tình
mẫu tử (che chở đàn gà con), sự nhẫn
nại (chăm chỉ kiếm ăn) và hi sinh
(sẵn sàng bảo vệ con mà đối đầu với hiểm nguy). Những đặc điểm ấy có thể chia
sẻ được với loài người nên từ chức năng định danh, chúng biến thành định tính.
Chính vì vậy, từ cuộc sống thực con gà
bước vào kho tàng trí tuệ của dân gian qua lời ăn tiếng nói hàng ngày để đúc
kết những kinh nghiệm sống. Trong kho tàng tục ngữ thành ngữ có rất nhiều câu
nói dân gian thể hiện những kinh nghiệm về tự nhiên, đời sống có chứa yếu tố “gà” mang ý nghĩa ẩn dụ để gới gắm cái
nhìn sâu sắc về cuộc sống và con người với những liên tưởng về nhiều măt.
- đoán định thời tiết
khí hậu, mùa màng: “Mỡ gà thời gió,
mỡ chó thời mưa”, “Ráng mỡ gà có nhà thì giữ”, “Chớp đông nhay nháy gà gáy thì
mưa”…
- truyền nhau kinh
nghiệm nhiều mặt trong đời sống vật chất: “Chó
liền da, gà liền xương”, “Vịt già gà tơ”, “Ếch tháng ba gà tháng bảy”, “Chuồng
gà hướng đông, cái lông chẳng còn”, “Chớ bán gà ngày gió, bán chó ngày mưa”, “Thứ
nhất phao câu thứ nhì đầu cánh” ...
- liên hệ so sánh khi nói
về hình thức: “Da trắng như trứng gà bóc”
- một nhận xét về vùng
miền địa lý: “Chó ăn đá gà ăn sỏi”
- thể hiện cái nhìn tích
cực về sự kế thừa: “Con cha gà giống”,
“Con tông gà nòi”
- thái độ chọn lựa: “Đầu gà còn hơn đuôi trâu”
- cái nhìn cảm thông về
gia cảnh: “Gà trống nuôi con”, “Mẹ gà con
vịt”
- thấu hiểu nghịch cảnh:
“Vạ vịt chưa qua vạ gà đã đến”
- chê trách nhẹ nhàng: “Lúng túng như gà mắc tóc”, “Mặt tái như gà
cắt tiết”
- chí trích gay gắt: “Gà què ăn quẩn cối xay”
- chê bai một cách dí
dỏm: “Trói gà không chặt”, “Nói chuyện con
cà con kê”, “Lờ đờ như gà ban hôm”
- phản ảnh một tình
huống bi hài: “Nháo nhác như gà lạc mẹ”, “Te
tái như gà mái nhảy ổ”, “Trông gà hóa cuốc”
- nhắc nhở sự bất cập
khi giao tiếp ngôn ngữ: “Ông nói gà bà
nói vịt”
- để nói móc: “Hăng máu gà”, “Xua gà cho vợ”, “Gà đẻ thì
gà cục tác”
-
để cảnh báo: “Vắng chủ nhà gà vọc niêu
tôm”, “Vắng chủ nhà gà bươi bếp”
- phê phán nặng nề: “Cõng rắn cắn gà nhà”, “Mèo mả gà đồng”
- nhắc nhở nhau về ứng
xử: “Chân gà lại bới ruột gà”, “Con gà
tức nhau tiếng gáy”
- phê phán thói xấu: “Chó cậy gần nhà, gà cậy gần chuồng”
- lối ứng xử thực dụng: “Tiền trao gà bắt lấy”
- cười cợt thói hư: “Trai thấy gái lạ như quạ thấy gà con”
- lời khuyên về đối nhân
xử thế: “Khôn ngoan đá đáp người ngoài,
Gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau”, “Gà khôn dấu đầu chim khôn dấu mỏ”
- đưa ra lời khuyên chắt
chiu cần kiệm: “Đãi cứt sáo lấy hạt đa,
đãi cứt gà mót hạt tấm”, hay nhắc nhở vè sự chừng mực: “Cơm đâu no chó, thóc đâu no gà”
Hình ảnh con gà
trong những câu ấy đã làm cho những lời dù là chê bai hay khuyên bảo không hề
gay gắt thái quá mà đôi khi lại mang đến những ý tưởng hài hước, hóm hỉnh ý nhị;
nhờ đó mà sự tinh tế trong quan sát, sự thâm thúy trong những liên hệ đã tăng
hiệu quả diễn đạt cũng như sức tác động ý nghĩa của chúng.
Thông qua hình tượng con
gà, mỹ học dân gian đã khái quát lên đủ mọi vấn đề về con người như tính cách, đạo
đức, thói quen sinh hoạt, các mối quan hệ, các mức độ… và điều đó là một minh
chứng sinh động cho sự đa dạng trong việc khai thác một con vật quen thuộc để
chuyển tải túi khôn kinh nghiệm của quần chúng nhân dân.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét