LTS: Ngày 30 tháng 9 năm 2017, Hội VHNT Quảng
Nam phối hợp với Hội đồng gia tộc Tộc Trương – làng Phú Xuân Nam, xã Đại Thắng,
huyện Đại Lộc, QN tổ chức lễ kỉ niệm 100 năm ngày sinh và 16 năm ngày mất nhà
thơ Trinh Đường (1917 - 2001).
***
Trinh Đường tên
thật là Trương Đình, sinh ngày 1.1.1917, quê quán làng Phú Xuân, xã Đại Thắng,
huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam. Các bút danh khác: Trương Phú Xuân, La Vân, Duy
Mỹ. Quê hương ông là một làng nhỏ bên sông Thu Bồn có núi đồi, sông suối, bãi bờ,
ruộng nương… làm mạch nguồn cho sáng tác của ông sau này.
Ông bắt đầu làm
thơ từ tuổi thiếu niên; mê thơ Đường, thơ Nguyễn Du và thơ Trung Đại của Việt
Nam, Trung Quốc.. Ngoài thơ ông còn sáng tác văn xuôi, viết tiểu luận, phê
bình…
Sau Cách mạng
tháng 8-1945, ông tham gia cách mạng, làm thư ký Đoàn văn hoá kháng chiến tỉnh
Quảng Nam Đà Nẵng (1946). Từ năm 1947 đến 1954, ông là uỷ viên Ban chấp
hành chi hội văn nghệ liên khu 5, phân hội trưởng phân hội văn nghệ Quảng Nam,
tiền thân của Hội văn nghệ Quảng Nam- Đà Nẵng sau này. Sau 1954, ông tập kết ra
Bắc và lần lượt công tác ở các cơ quan thuộc Hội Nhà văn Việt Nam, trưởng
ban thơ Báo Văn nghệ, biên tập thơ nhà xuất bản Văn học. Thời gian này ông viết
sung sức và lần lượt xuất bản nhiều tập thơ: Hoa gạo, Hạt giống, Thủy triều,
Bạch Đằng tráng khúc, Về Thanh…
Trinh Đường là người
có công trong việc phát hiện và bồi dưỡng lực lượng viết trẻ thời chống Mỹ, những
nhà văn này về sau đều là những người chủ lực trong hoạt động văn nghệ trong cả
nước.
Từ 1981, ông về
hưu nhưng vẫn tham gia vào việc biên soạn nhiều tập tuyển thơ lớn như: Một
thế kỷ thơ Việt, Ngày hội thơ (làm thế nào để có thơ hay), Thơ Việt thế kỷ 20
chọn lọc và bình. Ông tiếp tục cho xuất bản các tập thơ: Giao mùa (1982), Quán
trọ (1991), Hội hóa trang (1992), Cà Mau (1997), Điện Biên Phủ trên không
(1997)....
Nhà
thơ Trinh Đường là hội viên sáng lập Hội nhà văn Việt Nam từ năm 1957, Hội viên
Hội nhà văn Hà Nội, Huân chương Kháng chiến hạng ba; Huân chương kháng chiến chống
Mỹ hạng nhất; Huy chương vì sự nghiệp văn học nghệ thuật Việt Nam… Ông là tác
giả của những tập thơ nổi tiếng và hơn 300 đầu sách văn học.
Sau một thời gian lâm bệnh, nhà thơ Trinh Đường mất tại Hà Nội ngày 28 tháng 9
năm 2001, hưởng thọ 85 tuổi và được đưa về an táng tại quê nhà ngày 4-10-2001.
Năm 2012, Trinh Đường được tặng giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật.
Tác phẩm của ông khá đa dạng về nội
dung: ngoài mảng thơ viết về đề tài đấu tranh chống Mỹ và công cuộc xây dựng
đất nước, ông có nhiều tác phẩm viết về tình yêu, suy ngẫm đời người… Tác phẩm thơ:
Hoa gạo (Nxb Văn học, 1960), Hạt giống (Nxb Văn học, 1966), Thủy triều (Nxb Văn
học, 1973), Bạch Đằng tráng khúc - trường ca (Sở Văn hóa Hồng Quảng, 1963), Về
Thanh (Sở Văn hóa Thanh Hóa, 1974), Giao mùa (Nxb Hội Nhà văn, 1982), Quán trọ
(Nxb Lao động, 1991), Hội hóa trang (Nxb Thanh Niên, 1992), Trò chơi phù thế (Nxb
Thanh niên, 1997), Cà Mau - trường ca (Nxb Thanh Niên, 1997), Điện Biên Phủ
trên không - trường ca (Nxb Đà Nẵng, 1997)… Văn xuôi: Làm cầu La Kham – ký
(Nxb VH, 1957), Ngày và đêm một lứa đôi - tập truyện ngắn (Nxb Đà Nẵng, 1988)… Lý
luận phê bình: Ngày hội thơ (Nxb Văn học, 1994), Những gương mặt thơ mới - tập
1, 2 (Nxb Thanh Niên, 1994), Thơ và tuổi học trò (Nxb Lao động, 1994), Một thế kỷ thơ Việt - tập 1 (Nxb Văn hóa thông
tin, 1995), Thơ Việt thế kỷ XX chọn lọc và bình - tập 1 (Nxb Thanh Niên, 1999)…
Sinh thời, ông đã đốt hơn mười tập thơ
của mình vì chưa thỏa mãn với những gì mình viết ra. Sau đó, ông đóng cửa khép
mình 3 năm để chuyên chuyện viết lách, đọc sách và tự học. Với ông “Thi bất kinh nhân tử bất hưu”, cả đời
ông đã dành trọn cho sự nghiệp văn thơ. Ông quan niệm: “Không làm một tia chớp/ Sống làm gì cho lâu” hay “Ngày nào viết được câu thơ/ Mới là ngày tồn
tại/ Bao tháng ngày còn lại/ Đều ở ngoài số tuổi đời tôi” (Ngẫu bút)…
Lúc đã ngoài 60
tuổi, nhà xuất bản Đà Nẵng định in cho ông một tuyển tập thơ. Bản thảo đã xong,
chuẩn bị đưa đi in thì Trinh Đường quyết định ngừng in tuyển tập với lý do: “In
tuyển tập tức là đã bắt đầu khép lại. Tôi chưa khép”.
Tuổi cao, ông vẫn
mê mải với những chuyến đi vào Nam ra Bắc, xuống biển lên rừng, trèo đèo lội
suối để viết. Hàng trăm bài văn thơ ra đời trong những chuyến đi như thế. Trinh
Đường đi để tìm thơ, tìm những chân lý của cuộc sống, để hiểu những lẽ huyền vi
của Trời, Đất. Trinh Đường quan niệm thơ là một cái gì đó thiêng liêng, nhưng
không thể đứng ngoài cuộc sống. Ông thường nói với một số anh em thân: “Thơ như
một cái mặt trống, phải có hiện thực cuộc sống đập vào thì nó mới rung vang lên
được".... Trinh Đường cần mẫn, lao tâm, lao lực trong cuộc hành trình thơ
riêng của mình. Hành trình ấy đã đem lại cho ông nhiều cảm hứng và trải nghiệm
trong cuộc tìm tòi và vươn lên chính mình: “Mây
sương trắng xóa biên thùy/ Xuống ga mới biết mình đi một mình”.
Mười hai năm cuối
đời, nhà thơ Trinh Đường dốc hết sức để sáng tác và lo tìm những bài hay của
thơ Việt thế kỷ 20. Tại đại hội Nhà văn Việt nam lần thứ 4 năm 1989, ông gửi đến
các hội viên một câu hỏi: “Làm thế nào để có thơ hay?” và đề nghị mỗi tác giả tự
chọn một bài thơ. Trân trọng việc làm của ông, nhiều nhà thơ đã viết bài trả lời.
Ông biên tập những ý kiến đó thành tập “Ngày hội thơ” với trên 200 bài thơ, bài
viết “Làm thế nào để có thơ hay?”.
Nhà thơ Vũ Quần
Phương có những dòng nhận định chính xác về thơ Trinh Đường: “Từ những năm 90,
thơ Trinh Đường có biến động mạnh… Thơ Trinh Đường có lẽ đến lúc này mới tìm
đúng quỹ đạo của mình. Một bài học về lao động thơ cả về công lẫn về tài. Cái nết
không bao giờ thỏa mãn, cái tính suốt đời tìm đã không phụ ông… Một Trinh Đường
tinh nhạy hơn khi nắm bắt những xao động vô cùng nhỏ bé của một không gian lớn
là lòng người và cũng thanh thản hơn khi luận bàn những thắng thua được mất phận
mình. Mọi việc quay nhìn lại thấy nhẹ nhàng thanh thản. Thanh thản thật sự tự
lòng mình chứ không phải trong lý sự như hồi còn trẻ. Cái ranh giới giữa ta và
người, giữa có và không đôi khi không còn nữa. Tuân thủ quy luật để thanh thản
mà giữ lòng vui đời”.
Đọc thơ ông, ta
gặp ở đây một Trinh Đường trìu mến: “Em
em em anh biết nói sao cùng/ Bao đêm dài thương em mà mất ngủ”; một Trinh
Đường mơ mộng: “Nằm trên thảm cỏ nhìn trời/
Nghe chim nghe gió nghe đời lâng lâng”; một Trinh Đường đằm thắm: “Nhắp chén trà xuân hương cúc đượm/ Giật
mình ngỡ uống cả mùa thu”; một Trinh Đường quyết liệt: “Thà đem xác tôi trôi sông/ Còn hơn chôn bên
mồ đứa ác”; một Trinh Đường đau đớn, dằn vặt với những câu hỏi về cõi nhân
sinh, về cái hư cái thực, hữu hạn của đời người: “Đời này vừa cúi xuống/ Ngẩng lên tóc bạc rồi”…
Thơ Trinh Đường
cô đúc, kết hợp giữa phong cách thơ Đường, thơ hiện đại, thơ lục bát. Bút pháp
tác giả luôn đổi mới, biến hóa, nhuần nhuyễn trong cấu trúc bài thơ và câu thơ,
xáo trộn thực và hư, xáo động thời gian và không gian cảm xúc sáng tạo ở nhiều
chiều thao thức.
Chùm thơ cuối
cùng trước khi ông ra đi, có không ít những câu thơ như tuyên ngôn: “Nhập thế hay xuất thế/ Cỏ bờ hay bụi bờ/ Nhập
thêm vào đất nước/ Mới nhập thân vào thơ” (Vĩ thanh).
Nhà thơ Hữu Thỉnh,
Tổng thư ký Hội Nhà văn Việt Nam, Tổng biên tập báo Văn nghệ trong điếu
văn tang lễ Trinh Đường nhấn mạnh: “Ghét thứ thơ nhợt nhạt, thiếu máu, Trinh Đường
tha thiết với cái mới, thậm chí luôn đau khổ và đi tìm cái mới, nhưng anh không
sa vào hình thức chủ nghĩa đánh mất mình trong mớ ngôn từ rối rắm, vô hồn. 10 tập
thơ và trường ca của Trinh Đường là một hành trình thơ tự vượt đầy gian khổ để
theo kịp cái mới của đời sống. Đặc biệt cảm động là mảng thơ trong những ngày nằm
viện, chống trả với bệnh tật, với hư vô: “Kiếp
phù du, cõi trần ai/ Đến chưa ấm chỗ đã rời chân đi”.
Nhà thơ Trinh
Đường đã để lại trong lòng bạn bè, đồng nghiệp và nhiều thế hệ bạn đọc niềm tiếc
thương, kính trọng.
Năm 2012, nhà
thơ Trinh Đường đã được đề nghị tặng giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật.
Đó là một phần thưởng xứng đáng giành cho một tài năng, một nhân cách lớn, một
con người yêu thơ nhất nước, một người trọn đời vì thơ.
NHÀ THƠ TỪ NHỮNG HẠT QUÊ
Mộc
Nhân Lê Đức Thịnh
Kính
tặng nhà thơ Trinh Đường
nhân kỉ niệm 100 năm ngày sinh của ông.
Sinh ra từ những hạt quê
tháng năm theo đuổi đam mê cháy lòng
Hoa
gạo bay thuở long đong
một thời trận mạc vẫn dong ruổi ngày.
Vần thơ chan chứa rứt ray
tình quê nợ nước trả vay cõi đời
chảy vào trang viết đầy vơi
chia
nhau kí ức một thời đã
qua.
Trăm năm về lại quê cha
tấm thân nằm giữa phù sa đắp bồi
nâng niu hạt giống mẩy chồi
bến sông Thu mãi bồi hồi tiếng thơ.
(Những cụm từ in nghiêng trong bài thơ là tên tác phẩm của nhà thơ Trinh
Đường)
Mộc Nhân – tháng 9 năm 2017
Thầy và trò tham gia buổi lễ |
Em Thùy Trâm hs Trường THPT Đỗ Đăng Tuyển đọc thơ Trinh Đường |
Nhà thơ Đinh Huyền đọc thơ Trinh Đường |
Nhà văn Phùng Tấn Đông đọc tiểu luận về Trinh Đường |
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét