NGÓT MỘT THẾ KỶ VĂN CHƯƠNG ViỆT
NAM ĐÃ BÒ QUA CHU VI THƠ MỚI ?
Nguyễn Hoàng Đức
Thơ
Mới xuất hiện những năm ba mươi thế kỷ 20, giờ đây đang là những ngày
cuối năm 2013, như vậy là văn thơ mới Việt Nam đã hành trình ngót
nghét một thế kỷ. Nhưng không có gì không có khúc dạo đầu, cũng
chẳng có gì thoát nổi sự bào thai ngay trong lòng nó. Thơ Mới xuất
hiện 1930-1945, cũng không ngoại lệ, thực ra nó được sửa soạn từ khi
chữ quốc ngữ ra đời từ 1621 (không có chữ quốc ngữ không có thơ
mới), nhưng sự mang thai khẩn thiết và chín muồi của nó bắt đầu từ
ban mai thế kỷ 20, khi chí khí khao khát độc lập, tự do và tiến bộ
của giới trí thức và nhân dân Việt Nam dâng rất cao.
Thơ
Mới rõ ràng đã là đỉnh cao của thơ ca Việt, một đỉnh cao độc nhất
vô nhị trong quá khứ chưa từng có, và song hành với nó là một nền
văn xuôi rất mới mẻ vỡ hoang tầm vóc và tương xứng với thơ, ra đời
với những tên tuổi và tác phẩm như “Tắt đèn” của Ngô Tất Tố, “Chí
Phèo” của Nam Cao, hay “Số đỏ” của Vũ Trọng Phụng…
Thơ
Mới là một đỉnh cao, cũng là mùa gieo hạt đầu tiên, hạt đấy phải
nảy mầm thành cây vươn cao, thành đại thụ… nhưng giờ đây sau rất nhiều
đánh giá từ mọi hướng, chúng ta vẫn chưa vượt qua được thời Thơ Mới,
và vẫn cứ mệt mỏi hát bài ca “bao
giờ cho đến ngày xưa”…
Ngót
một thế kỷ gieo hạt đã trôi qua, chúng ra thăm đồng vẫn thấy chỉ
toàn lúa lép. Vậy giờ đây chúng ta thử “cân” đong những thứ hạt mà
mình thu được. Ngoài vài tác phẩm kể trên, cũng như sự đáng tiếc
giành cho các tài năng lớn như Vũ Trọng Phụng hay Hàn Mạc Tử yểu
mệnh, nói chung mấy nhà văn tiền bối như Ngô Tất Tố hay Nam Cao vẫn
chưa chín muồi để có một tầm vóc “đại
văn hào” với nhiều tác phẩm hay tư tưởng đồ sộ. Dẫu vậy những
đỉnh cao này dường như chưa có ai thời mới vượt qua. Có rất nhiều
bằng chứng cho việc này, chẳng hạn, văn học mạng là thứ văn học tốc
độ nhất, tiện lợi nhất, hiện đại nhất, nhưng mới đây theo nhiều đánh
giá của các nhà chuyên môn giỏi cả mạng lẫn văn học, đã đành chính
thức tuyên bố: sau 5 năm, văn học mạng chẳng có thành tựu gì đáng
kể, coi như thất bát trắng tay. Hoặc có rất nhiều người trẻ quan
niệm rằng: thời nay hiện đại, tuổi trẻ nhanh nhạy, tiếp thu nhiều
tiến bộ của thời đại, nên các cây viết trẻ viết khác và hay hơn xưa
nhiều.
Đây
là cách nghĩ hoàn toàn phiến diện. Chẳng hạn như tôn giáo là đức
tin và trí tuệ cao bậc nhất của loài người, nhưng hơn 2000 năm nay,
nhân loại chưa nghĩ được ra thứ tôn giáo nào lớn hơn các tôn giáo đã
có. Về triết học, một chuyên gia “lật
đổ” như Nietzsche đã thú nhận “chúng
ta không làm gì được nhiều hơn tổ sư của chúng ta”. Còn về thời
đại, nhiều chuyên gia cảnh báo: thế hệ mới có nhiều nguy cơ rơi vào
mù văn hóa mới. Văn chương không phải là thời trang mà cần mốt mới
hay hiện đại. Văn chương là suy tư, triết lý và tư tưởng. Đó là điểm
mạnh không cãi nổi của văn chương. Mà nếu có ai muốn cãi lại điều
này thì đều thất bại hoặc mang một tầm vóc bé. Để dễ hiểu, tôi xin
đưa ra vài minh chứng ở châu Á, như thi hào Tagore, Tôn Trung Sơn, Lỗ
Tấn… tất nhiên còn rất nhiều cây bút vui vẻ cảm xúc, nhưng đó là
mối quan tâm thứ hai của chúng ta. Mà với những người thích chinh
phục đỉnh cao thì “thứ hai” không bao giờ còn là mối quan tâm nữa,
hoặc nếu có chỉ là mối quan tâm của kẻ yếu. Thực tế đã được nhiều
cây bút trẻ chứng minh và thú nhận, họ nói: càng ngày càng thiếu
những tư duy đồ sộ bởi vì người ta chỉ chú trọng vào cái cấp thời
của văn chương chớp nhoáng trên mạng.
Giờ
chúng ta nên đi vào kiểm kê những tài sản đã đạt được. Ngoại trừ
vài khuôn mặt có tấm có món mà chưa trở thành đại văn hào nghễu
nghện đồ sộ, còn lại Việt Nam chỉ có thơ. Mà thơ thì sao? Như một
loạt các bài nghiên cứu rất tỉ mỉ cụ thể, thì hầu hết các nhà thơ
dù rất danh tiếng cũng thường chỉ là tác giả của một bài. Còn một
vài nhà văn dù rất nổi tiếng nhưng nếu xét nét ra thì cũng thuổng
chỗ này chỗ kia nhiều lắm. Điều đó cũng logic thôi, vì khi trí tuệ
yếu ớt, thiếu vốn thì người ta đành “mượn” tạm.
Tóm
tắt, khuôn mặt văn chương hiện đại Việt Nam có tài sản gì? Nói chung,
chủ yếu là thơ với tài năng dù rất tài cũng chỉ một bài, nếu bắt
tay viết trường ca thì hầu hết thất bại vì không kiếm được nhân vật
mà chỉ là kéo dài những cảm xúc lê thê. Về tiểu thuyết, như nhiều
chứng kiến, các nhà văn Việt cứ viết tập hai là quanh co nhạt nhẽo.
Giờ
chúng ta thử đếm mấy thành tựu. Nhà văn Nguyễn Khải một người rất
khá về vốn kiến thức và bản lĩnh, nhưng thừa nhận “cả đời tôi tạo được ra mỗi Tuy Kiền”.
“Chuyện kể năm 2000” của Bùi
Ngọc Tấn là bức tranh về tù nhân rất sinh động và vật vã, nhưng
dường như chỉ có thế, nếu đem so với “Papilon
người tù khổ sai” của Charrière Henry thì không gian phiêu lưu cũng như
tình tiết hấp dẫn không thể bằng, nhưng Papilon cũng chỉ là thứ ghi
chép á văn học mà thôi. “Đêm thánh
nhân” của Nguyễn Đình Chính cũng khá đồ sộ nhưng dường như là văn
du lịch đi từ mỏ đá đến nhà mồ Tây Nguyên… Đây cũng là đặc trưng của
văn thơ Việt muốn kéo dài thì chẳng có cách nào khác là dùng “cấu trúc chiều ngang” đi theo mạch
của địa lý nhiều hơn là đi chiều dọc của mục đích tư tưởng. “Cơ hội của Chúa” của Nguyễn Việt
Hà cũng gây đình đám nhưng cũng là một thứ cấu trúc chiều ngang,
thứ chiều ngang sinh hoạt, nhân vật chính đi hết cuộc nhậu này đến
cuộc nhậu khác mang theo tư duy không quan trọng hơn chính chai rượu.
Còn một ông vua truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp cũng không thể quên lãng,
nhưng có điều ông vua này không thể hóa men của truyện ngắn thành
chất liệu cho tiểu thuyết. Còn các khuôn mặt nữ, Phạm Thị Hoài được
trang bị văn hóa rất cẩn thận ở Đức, hay Dương Thu Hương đã có “Bên kia bờ ảo vọng” từ rất sớm,
nhưng rõ ràng hai con tầu có vẻ lớn này chưa thể cập bến cảng đồ
sộ. Còn vài nhân vật mới như Đặng Thân với “Những mảnh hồn trần” dường như là đại biểu cao cấp cho
văn chương “hiện đại”, nhưng liệu anh đi xa bao nhiêu hay lại trở thành “đại diện cho mùa thất thu của văn học
mạng”? Nguyễn Một với hai tiểu thuyết “Đất trời vẫn vũ” và “Ngược
mặt trời” đã xây dựng bút pháp huyền ảo khá logic công phu, anh
đã chạm đến cả siêu hình học, đức tin… Chỉ có điều người ta vẫn
cảm thấy anh như một hậu vệ chưa dùng hết sức bình sinh sút bóng
vào “gôn”, nghĩa là vẫn chưa tới và chưa đã, lại phải chờ trận chung
kết của anh.
Những
năm qua, công bằng mà nói “Nỗi buồn
chiến tranh” của Bảo Ninh là gặt hái nhiều ý nghĩa thành công
bậc nhất cả trong và ngoài nước. Có những tờ báo uy tín về văn học
của Mỹ đã đánh giá Bảo Ninh là “Sự
phản tỉnh đầu tiên về chiến tranh Việt Nam” (the first reflexion on
theVietnam war). Nhưng cũng có điều nhà văn này dường như không thể
chắp thêm toa cho đoàn tầu sự nghiệp của mình. Có một lần tôi đến
thăm nhà văn Nguyễn Kiên, một người yêu và bái phục văn chương của Bảo
Ninh từ đỉnh đầu đến gót chân, đã nói vài lần: viết như Bảo Ninh như
một kẻ say, lảo đảo, không biết mình đang viết cái gì, có như vậy
mới có áng văn bất hủ như “Nỗi
Buồn chiến tranh”. ? Viết như kẻ say, viết bằng cảm tính, chính
thế người ta mới hết vốn không thể viết thêm được. Và viết như say,
thì chẳng bao giờ thành chuyên nghiệp cả, và thật khó mà đạt tới
tầm vóc của một nhà văn đồ sộ, bởi vì có một phương ngôn “người chuyên nghiệp là người sáng tác
được cả ngay trong lúc không hưng phấn”.
Trong
bài này, hầu như tôi không bàn đến tầm vóc của thơ, bởi lẽ thơ còn
chưa vượt được thời Thơ Mới thì bàn làm gì. Vả lại, tôi đang ưu tiên
bàn đến tác phẩm và tác giả đồ sộ tầm vóc, thì chu vi của một
bài thơ bé quá, một trang giấy in thơ không thể đủ tầm vớt nền văn
học của dân tộc đang từ đống bèo thành trái núi. Có rất nhiều
người Việt biện hộ rằng “hay không
cốt dài”, có thể thế, nhưng đồ sộ, vĩ đại, hoành tráng không
phải tầm vóc của vài cọng rau hay bốn hòn gạch tứ tuyệt.
Giờ chúng ta hãy trả lời câu
hỏi cốt tử: tại sao nền văn học đã có một khởi đầu đẹp như trong mơ
từ thời Thơ Mới lại không thể nhúc nhích tiến bộ tí nào?
Một
chiếc đồng hồ không thể vận động nếu kim giây chạy không kéo theo kim
phút và kim giờ. Tiến bộ, hình ảnh biểu tượng của thế giới là leo
cầu thang. Qua khảo sát và sống chung với người Việt, các tác giả
Việt, tôi thấy rõ một điều: chúng ta thiếu vắng trầm trọng khả năng
tư duy của lý trí. Chính thế mà kết cấu cho các tiểu thuyết lỏng
lẻo, truyện ngắn thiếu tình tiết, thơ không thể mang nhân vật. Và
không có lý trí thì chắc chắn người ta không thể tiến bộ vì theo
triết học: cảm xúc là bản năng muôn đời không bao giờ thay đổi. Chỉ
có lý trí và tư tưởng thay đổi mà thôi.
Tất
cả các ngôi nhà lớn hay vươn lên tầm cao thì đều đòi hỏi sự cấu kết
của kiến trúc, vậy mà chúng ta đòi dựa vào cảm xúc thì làm sao có
kết cấu cho kiến trúc hay tác phẩm đồ sộ. Có phải vì thế mà chúng
ta chỉ đóng nổi chuồng chim, chuồng gà cho sáng tạo mấy vần thơ lẻ?
(nói cho sang chứ làm một chuồng chim còn công phu hơn một bài thơ
ngắn tũn).
Nền
văn học muốn lớn thì cũng phải dựa trên nền bạn đọc lớn. Dân số
nước ta ngót một trăm triệu người đang ở tốp cường quốc rồi, vậy mà
các cuốn sách in ra chỉ cỡ một nghìn, không bằng một huyện lẻ của
nước khác… Dân trí chúng ta thấp như vậy, thì bao giờ văn học cũng
như sách vở mới được đặt lên đỉnh não?
Sách
là tư duy lại không ở trên đầu, vậy thì chỉ còn những thứ thơ cảm
xúc bẻo lẻo đọc tứ tung để hú hí mua vui và cầu tí danh hờ vặt
vãnh. Vậy thì bao giờ chúng ta mới bò ra khỏi chu vi có diện tích “đựng hạt men” của thời Thơ Mới?
Nếu chúng ta không chịu sáng tạo bằng lý trí thì chắc chắn đó là
chu vi bất khả vượt qua!
NHĐ
28/12
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét