Phạm Đạt Nhân
Có một bài thơ chữ Hán của Chu Thần Cao Bá Quát không được
phổ biến, không được giảng dạy trong sách giáo khoa và cũng không thấy đăng tải
trong thơ văn hợp tuyển của nhiều tác giả. Đó là bài Văn tế vua Lê Thái Tổ. Bài thơ được sáng tác trong một hoàn cảnh hết
sức đặc biệt và là tài liệu giúp hậu thế hiểu đúng về tấc lòng ưu ái của nhà
thơ đối với đất nước. Rất may là vào năm 1939 cụ Ứng Hòe Nguyễn văn Tố đã phát
hiện và cho đăng trong Văn Học tạp chí
bài thơ hy hữu nầy. Theo cụ Ứng Hòe thì sau vụ khởi nghĩa Mỹ Lương thất bại cả
dòng họ của Cao Bá Quát bị tru di tam tộc; riêng họ Cao bị bắt bỏ củi đem về
kinh để hành hình. Khi đòan người giải tù đi ngang qua làng Bố Vệ, tỉnh Thanh
Hóa, Cao Bá Quát chợt thấy đền vua Lê Thái Tổ ông xin vào miếu để tế tam sinh.
Bài thơ nầy được ứng khẩu đọc trước linh vị của vua Lê Thái Tổ:
Ngô sinh bất phụ thử sơn hà
Thiên
địa vô tình khả nại hà
Vĩnh
biệt sầu văn nam phố khúc
Hoàn
hương tu tụng đại phong ca
Thiên
niên cố quốc tinh linh tại
Nhất
khứ anh hùng ẩm hận đa
Điếu
bái miếu đường chung nhật cảm
Y
nhiên tích tụ phát kim hoa
( Văn học tạp chí năm 1939 )
(Ta
sinh ra vốn không phụ với nước non nầy
Trời
đất vô tình với ta không biết bao nhiêu nữa
Vĩnh
biệt buồn nghe khúc ca Nam phố
Về
làng nên đọc bài ca khải hoàn
Nước
cũ ngàn năm còn lại tinh túy thiêng liêng
Một
bước ra đi khách anh hùng uống nhiều hận
Lạy
tạ miếu đường suốt ngày cảm động
Cây
lá xưa vẫn như cũ nở cành hoa ngày nay.)
Cuộc khởi nghĩa Mỹ Lương do Lê Duy Cự , một cựu thần
nhà Lê khởi xướng và Cao bá Quát làm quân sư. Cuộc khởi nghĩa chẳng may bị
bại lộ, nghĩa quân đốt cháy giai đoạn nên dẫn đến thất bại; triều đình Tự Đức kết
án phản loạn. Tất nhiên các sử thần của vua đều ghi chép như vậy. Nhưng rất tiếc
một vài trí thức sau nầy cứ dựa y vào sử ghi để kết tội họ Cao. Điển hình là
Trúc Khê Lê văn
Triện - ông viết: "Theo nhận xét của tôi bằng những tài liệu chứng cớ còn lại thì việc biến Mỹ Lương là việc có thật mà việc ấy là việc cuồng vọng của nhà văn sĩ họ Cao bất đắc chí chứ không phải là việc do một cái tư tưởng cách mạng sản sinh ra".
Trúc Khê Lê văn Triện làm ở viện bác cổ nên "những tài liệu và chứng cớ" mà ông có là sử liệu được ghi chép bởi các sử thần. Sử quan ăn lộc vua tất nhiên phải viết tốt cho triều đình. Nếu Trúc Khê có đọc kỷ toàn bộ thơ văn của Chu Thần, đặc biệt là bài thơ tế Lê Thái Tổ trên đây thì sẽ không có nhận xét bất công và nông nổi như thế.
Triện - ông viết: "Theo nhận xét của tôi bằng những tài liệu chứng cớ còn lại thì việc biến Mỹ Lương là việc có thật mà việc ấy là việc cuồng vọng của nhà văn sĩ họ Cao bất đắc chí chứ không phải là việc do một cái tư tưởng cách mạng sản sinh ra".
Trúc Khê Lê văn Triện làm ở viện bác cổ nên "những tài liệu và chứng cớ" mà ông có là sử liệu được ghi chép bởi các sử thần. Sử quan ăn lộc vua tất nhiên phải viết tốt cho triều đình. Nếu Trúc Khê có đọc kỷ toàn bộ thơ văn của Chu Thần, đặc biệt là bài thơ tế Lê Thái Tổ trên đây thì sẽ không có nhận xét bất công và nông nổi như thế.
Bất cứ một sự kiện lịch sử nào đã xảy ra đều đã xảy ra
trong một bối cảnh thời đại và một môi trường xã hội , với nhiều nguyên nhân
xa, gần khác nhau.
Xét về khởi nghĩa Mỹ Lương không thể không xét đến triều
Tự Đức, đến sự nhiễu nhương của thời đại, đến sự bất ổn của chính trị xã hội;
và đặc biệt là hoài bảo chí hướng và lý tưởng của Cao Bá Quát. Không thể hồ đồ
phiến diện chỉ xét đến khía cạnh "cuồng
vọng" , "bất đắc chí" của họ Cao. Vả lại theo quan niệm nho
gia thì kẻ sĩ, hiền nhân chỉ thờ hiền vương minh chủ. Dù rằng (theo Nguyễn công
Trứ): "Đã mang tiếng ở trong trời đất,
phải có danh gì với núi sông" song cũng không phải vì công danh
sự nghiệp mà phải cam lòng làm một ngu trung.
"Ta sinh
ra không phụ với nước non nầy
Trời đất vô
tình với ta không biết bao nhiêu nữa ..."
Đọc hai câu nầy làm sao mà chúng ta không thấy
được Cao Chu Thần đã nặng lòng với đất nước biết dường nào !?
Hành động của Cao bá Quát xuất phát từ nguyên động lực
vì nước vì dân. Hoài bảo chí hướng vì dân vì nước đã nung nấu trong lòng của
tiên sinh ngay từ còn nhỏ tuổi - những muốn kề vai "gánh vác giang sơn cẩm
tú ", đã muốn làm con dân của vua Nghiêu, vua Thuấn, đã say mê sự nghiệp
Trình, Chu, quyết "xây bạch ốc lại lâu đài" …
Chuyện kể: quan đốc học thấy Cao bá Quát còn nhỏ mà hóng chuyện
người lớn, bèn ra câu đối: “Nhữ hiếu sinh
hà xứ đắc lai, cảm thuyết Trình Chu sự nghiệp? (Mày là học trò nhỏ ở đâu tới
đây dám nghe sự nghiệp Trình Chu ? )
Cao
Bá quát đáp ngay: “Ngã quân tử kiến cơ
nhi tác dục vi Nghiêu Thuấn quân dân” (Tôi là người quân tử gặp thời cơ sẽ hành
động , lòng những muốn vua và dân trở thành vua và dân thời Vua
Nghiêu Vua Thuấn).
Ngay từ rất bé, Cao bá Quát đã có khát vọng tự do, căm ghét
quân quyền chuyên chế áp bức. Một hôm vua và tùy tùng tuần du qua sông thấy cậu
bé Cao bá Quát đang trần truồng bơi lội, quan quân bắt tội cậu,
trói dẫn đến vua. Vua ra câu đối (và bảo nếu đối chỉnh thì tha cho): “Nước trong leo lẻo cá đớp cá”. Cậu bé Cao
đối ngay: “Trời nắng chang chang người trói người”.
Cao bá Quát thuộc loại cá thể đột biến . Những cá thể đột biến
thường không theo lẽ phải thông thường , không rập khuôn vào thông lệ, không ép
mình theo công thức để thích nghi với một tình trạng tệ hại kéo dài .. Những
nhân tố tiên phong của phong trào cách mạng đều thuộc loại cá thể đột biến . Có
một câu nói : " Lịch sử thường được làm nên bởi những phần tử không theo lẽ
phải ."Cao Bá quát tha thiết với sự đổi mới và canh tân đất nước .. Ông cực
lực phản đối cái học tầm chương trích cú , nhai văn nhá chữ của bọn hủ nho .
Cái học đó sản sinh ra hư văn mà không có thực tài , thực lực .Chính vì vậy mà
ông dám chê bai , khinh thị mỉa mai hội tao Đàn do vua Tự Đức làm chủ soái : “Ngán thay cái mũi vô duyên
Câu thơ thi xã con thuyền Nghệ An”. Trong khi đó Vua Tự Đức lại thành thực
ca ngợi văn tài của Cao bá Quát : “Văn
như Siêu Quát vô tiền Hán / Thi đáo
Tùng, Tuy thất thịnh Đường”.
Cao bá Quát có tư tưởng tiến bộ , có tầm nhìn chiến lược về
tương lai đất nước , có tâm huyết canh tân , đổi mới. Nhân chuyến đi sứ Tân Gia
Ba (Singapore), ông được chứng kiến nền văn minh tiến bộ của xứ người và không
khỏi đau lòng trước sự lạc hậu của nước nhà do cái học hư văn:
"Nhai văn nhá chữ buồn ta
Con giun còn biết đâu là nông sâu
Tân Gia Ba vượt con tàu
Mới hay vũ trụ một màu bao la
Giật mình khi ở xó nhà
Văn chương chữ nghĩa khéo là trò chơi "
Cao Bá Quát xiển dương phong trào canh tân đất nước , giao
thương với các nước phương tây , học hỏi văn minh của các quốc gia tiên tiến
trên thế giới để theo kịp thời đại.
“Không đi khắp bốn phương trời
Vùi đầu án sách uổng đời làm trai”
Ông mỉa mai khinh thường đám kẻ sĩ háo danh , khom lưng , cúi
đầu , cúc cung phụng sự cho một triều đình thối nát: "Mũ cánh chuồn đội
trên mái tóc/ nghiêng mình đứng chực cửa
hầu môn/ Thương ai bó gối nằm tròn / người trong bốn mặt danh sơn rỡ
ràng / Cao nhân dấu cũ mơ màng / Chữ danh chi để buộc ràng thân nhau
?! "
Cao bá Quát dùng văn chương như một vũ khí công kích bọn quân
quyền cầu an , nhu nhược ; những mong triều đại lung lay rồi thay đổi chính
sách . nhưng bọn tôi tớ ký sinh , hoàng thân quốc thích cố bám lấy sự duy trì đế
chế để vinh thân phì da . Thế là khởi nghĩa Mỹ Lương nổ ra . Cao bá Quát bị xử
trảm. Cả ba họ cũng bị tru di.
Nhưng trước khi chết , tiên sinh đã có một niềm lạc quan tin
tưởng "Cây đời mãi mãi xanh tươi ", “Ngàn năm sau vẫn còn lại tinh
túy thiêng liêng”.
Cho dù: "Một bước ra đi khách anh hùng uống nhiều hận”.
Cao tiên sinh lạy tạ miếu lê Thái Tổ và cảm thấy mình xứng
đáng với khí thiêng của trời đất với hồn thiêng của người anh hùng áo vải Lam
sơn: "Cây lá xưa vẫn như cũ nở cành hoa ngày nay”.
Cũng có người cho rằng sự phản kháng của Cao là do kiêu ngạo
và phẩn uất. Nhận định nầy có phần đúng nhưng chưa đủ. Kiêu ngạo là hiện tượng
ý thức tự ý thức biết mình tài giỏi hơn người, biết mình thông minh trác việt,
lỗi lạc vượt trội.
Cao bá Quát đã khiến cho nhiều người khó chịu vì câu nói
"Cả thiên hạ có bốn bồ chữ, một mình tôi chiếm hai bồ, anh tôi Bá Đạt và bạn
tôi Nguyễn Siêu một bồ, còn một bồ phân phát cho thiên hạ" . Thật
vậy, Cao Bá Quát luôn đỗ đầu trong các kỳ thi; văn tài đến nhà vua cũng
phải nể trọng . Có điều ông chỉ tỏ ra cao ngạo với bọn quân quyền sĩ phiệt còn
đối với hàn nho , bần dân và các môn đồ ông rất khiêm hạ, thân thiện , gần gũi.
Phẩn uất là phản ứng tự nhiên của một con người luôn bị chèn
ép , hảm hại . Từ bất bình sinh ra phản ứng là quy luật tự nhiên ( vật bất bình
tắc minh ) . Sự phản kháng của Cao Bá Quát đi từ ôn hòa đến bạo động là do tình
hình đất nước ngày càng đen tối , chế độ phong kiến ngày càng đánh mất vai trò
lịch sử ; Vua quan triều Tự Đức ngày càng nhu nhược , đớn hèn khi liên tục phải
ký các hiệp ước bất bình đẳng với thực dân Pháp.
Cao bá Quát ra đời khi Gia Long đã vững vàng đế nghiệp . Ông
Vua nầy có công đưa giang sơn quy về một mối . Thống nhật được lãnh thổ nhưng
lòng dân không nhất thống . Đất nước có hòa bình nhưng chưa được thái bình . Ấy
là do chính sách phân biệt Nam - Bắc , sự trả thù hèn hạ , tàn nhẫn đối với nhà
Tây Sơn . Đến đời Minh Mạng , Thiệu Trị nhờ có văn học , biết vận dụng chính trị
Tống Nho nên đất nước có ổn định về nội trị song vấn đề đối ngoại có những sai
lầm vụng về nghiêm trọng . Đó là chính sách " bế quan tỏa cảng" và giết
hại giáo dân . Đến thời Tự Đức không cải cách canh tân được gì mà còn thêm bảo
thủ , lạc hậu . Ngay việc lên ngôi của Tự Đức cũng là mầm mống của huynh đệ
tương tàn , nồi da xáo thịt . Theo di chiếu của Thiệu Trị thì Hồng Bảo là Hoàng
trưởng tử lên làm vua . Hồng Bảo là người có tư tưởng tiến bộ , có óc duy tân ,
có chí hướng mở cửa giao thương với các nước láng giềng , bang giao với phương
Tây , gây thanh thế trên vũ đài quốc tế .. Hồng Nhậm là em Hồng bảo cải
di chiếu , bắt nhốt anh mình vào ngục tối , bỏ đói cho đến chết rồi lên ngôi lấy
hiệu là Tự Đức . Trong suột 36 năm trị vì ( 1847- 1883) Tự Đức không làm được
gì cho đất nước ngoài việc xướng họa văn thơ với các triều thần dua nịnh ;
ngoài việc xây lăng Vạn Niên hao tốn biết bao nhân mạng , biết bao của cải của
dân lành . Chính sách cấm đạo , bế môn tỏa cảng .. tạo ra cái cớ cho thực dân
Pháp xâm lược nước ta . Tự Đức là một ông vua nhu nhược , đớn hèn , Khi
tướng Hoàng Kế Viêm dâng sớ lên vua xin xuất quân , Tự Đức phê vào sớ :
" Kim nhật thỉnh chiến , hựu nhật thỉnh chiến , chiến nhi bất thắng ,
ngô gia mẫu tử tri vô hà địa ? " ( nay chiến tranh , mai lại chiến
tanh chiến mà không thắng thì còn đất đai mô cho mẹ con trẩm ở ? "Thì ra
Vua chỉ lo toan cho lợi ích cá nhân mà không đếm xỉa gì đến vận mạng nước nhà ,
đến sự tồn vong của quốc gia và sự an nguy của xã tắc.
Do chính sách chuyên chế của nhà vua , sự tham nhũng của quan
lại , sự đục khoét của hoàng tộc khiến cho đời sống của dân lành càng trở
nên bức bách , bần cùng , đói khỏ . Giặc cướp nổi lên tứ tung ( giặc Nông văn
Vân , giặc Phan bá Vành , giặc Lê Duy Lương ...)
Buồn thay , trong hoàn cảnh quốc gia suy vong mà một số kẻ sĩ
vẫn xuất chính làm quan , cúc cung phụng sự triều đình để có được cái bả vinh
hoa . họ là những phần tử thích nghi với hoàn cảnh và thực hiện trung hiếu của
nho gia một cách cứng ngắc . Điển hình là ông Nguyễn công Trứ với quan niệm
" ra khỏi bụng mẹ là đã có vua để thờ "( xuất mẫu hoài tiện thị hữu
quân thân ". Nguyễn công Trứ lúc nào cũng " Sắp hai chữ quân thân mà
gánh vác " và luôn nghĩ rằng " Đạo vi tử , vi thần đâu có nhẹ ".
Nguyễn công Trứ quên rằng lẽ xuất xử của Nho gia có hai lối : Nếu gặp minh quân
, chân chúa thì ra làm quan còn nếu gặp hôn quân , bạo chúa thì ẩn dật chờ thời
. Vậy nên Nguyễn Trãi mười năm sống ở Đông quan ,nghèo khổ ẩn nhẫn vẫn không chịu
hợp tác với nhà Minh ; đợi khì có hội thề Lũng Nhai mới ra đầu quân với Lê Lợi
dâng Bình Ngô sách.
Cao Bá Quát và Nguyễn công Trứ là hai danh sĩ đồng thời , đồng
thế hệ ,đều là môn đồ của Nho gia nhưng hoài bảo và chí hướng của hai con
người nầy thật quá khác nhau.
Cao bá Quát là một thiên tài lỗi lạc ôm ấp chí cao mộng
lớn; từ thuở nhỏ đã tôn thờ lý tưởng vì dân vì nước. Năm 40 tuổi Cao bá
Quát mới thực hiện hoài bảo của mình trong khởi nghĩa Mỹ Lương.
Tuy giấc mộng không thành, dòng họ lại bị tru di nhưng cái
anh linh của tiên sinh không hề mất bởi "thác là thể phách còn là
tinh anh" (Nguyễn Du).
Câu thơ cuối như một lời trăng trối với hậu thế: “Y nhiên
tích tụ phát kim hoa" (cây lá xưa vẫn như cũ nở cành hoa ngày nay).
“Thật đáng trách cái chế độ hà khắc, trong giai đoạn suy vong
lại càng ác liệt đến không dung dưỡng nổi một tâm hồn mẫn tiệp, ham sống. Đó
cũng chính là cái sống bền bĩ, muôn đời mà cũng là những gì tiêu biểu cho quyền
sống con người nghìn thuở hướng vươn lên" (Phạm văn Diêu).
Đăng lại từ nguồn: http://vuphamdatnhan.blogspot.com/
Đăng lại từ nguồn: http://vuphamdatnhan.blogspot.com/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét