Mộc Nhân
(Tư liệu giáo khoa)
Đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích nằm ở phần “ Gia biến và lưu lạc”. Sau khi
biết mình bị lừa vào chốn lầu xanh, Kiều uất ức định tự vẫn. Tú Bà vờ hứa hẹn
đợi Kiều bình phục sẽ gả chồng cho nàng vào nơi tử tế, rồi đưa Kiều ra giam
lỏng ở lầu Ngưng Bích, đợi thực hiện âm mưu mới. Đây là một trong những đoạn
miêu tả nội tâm nhân vật thành công nhất trong Truyện Kiều của Nguyễn Du.
Trong
đoạn trích, Nguyễn Du đã đặt nhân vật vào cảnh ngộ éo le để thấy rõ tấm lòng
thuỷ chung trong sáng, sự hiếu thảo, tấm lòng nhân hậu của nàng.
1. Khung cảnh của bi kịch nội tâm:
Kiều bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích, những ngày tháng
trôi qua như khoá kín tuổi xuân, nàng sống như một cô gái cấm cung. Quá khứ là bao
nỗi đau đớn tủi nhục, hiện tại là sự giam cầm, tương lai mờ mịt chưa biết đời
mình rồi sẽ ra sao!
Nguyễn Du đã đặt Kiều sống trong cảnh ngộ ấy để cho nàng tự bộc lộ tâm
trạng của mình theo từng dòng thơ:
“Trước lầu Ngưng
Bích khoá xuân
Vẻ
non xa tấm trăng gần ở chung
Bốn bề bát ngát xa trông
Cát vàng cồn nọ bụi hồng
dặm kia”
Cảnh vật nơi đây có không gian, thời gian, có hình ảnh, màu sắc, có
hình ảnh con người đầy tâm trạng. Từ trên lầu cao ngước mắt xa trông, nàng chỉ
thấy non xa, nhìn lên trời cao chỉ thấy
mảnh trăng treo lơ lửng trên đầu tưởng như rất gần. Tất cả như cùng ở chung
trong một bức tranh đẹp. Nhìn xuống mặt đất thì bốn bề bát ngát xa trông,
một bên là cồn cát vàng nhấp nhô sóng
lượn, một bên là bụi hồng trải khắp dặm
đường xa.
Cảnh thiên nhiên mênh mông vắng lặng heo hút không một bóng người được
chấm phá bằng những nét bút tài hoa đã làm nền cho bức tranh tâm trạng của nhân
vật.
“Bẽ
bàng mây sớm đèn khuya
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng”
Từ bẽ bàng nói
lên nỗi xấu hổ, tủi thẹn của Kiều. Tâm trạng đó kéo dài và khép kín theo thời
gian và không gian từ lúc mây sớm đến
lúc đèn khuya. Nàng Kiều đang rơi vào hoàn cảnh cô đơn
tuyệt đối, không bầu bạn, không biết tâm sự cùng ai. Vì vậy mà “Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng ”.
Ngôn ngữ miêu tả đặc sắc, chỉ với vài nét tả cảnh vật đơn sơ mà gợi ra
một khung cảnh ngoạn mục.
Mỗi câu thơ là một cặp đối xứng: non
xa- trăng gần; cát vàng cồn nọ- bụi hồng dặm kia; mây sớm- đèn khuya; nửa tình- nửa cảnh…sự đối xứng ấy thực ra
là sự chia cắt trong lòng nhân vật với bao nỗi ngổn ngang bề bộn trăm mối bên lòng
chẳng biết chia sẻ cùng ai.
Bút pháp nghệ thuật tả cảnh ngụ tình được thể hiện tinh tế. Nhà thơ đã
xây dựng bức tranh ngoại cảnh làm nền cho bức tranh tâm trạng nhân vật.
2. Nỗi nhớ của Kiều về những người thân.
Kiều đau đớn khi nhớ tới người
yêu:
“Tưởng
người dưới nguyệt chén đồng
Tin sương luống những rày trông mai chờ ”
Nhớ đến Kim Trọng là nhớ đến kỉ niệm về
mối tình đầu. Dưới vầng trăng năm xưa, hai người đã cùng uống chén rượu thề với
lời nguyện ước sẽ sống chung thuỷ đến trọn đời. Nàng hình dung Kim Trọng chưa
hay biết gì về bi kịch đời nàng nên vẫn mòn mỏi trong sự trông chờ tuyệt vọng.
Nhớ người yêu, Kiều nghĩ đến mình với
những lời chân thực thiết tha:
“Bên trời góc bể bơ vơ
Tấm son gột rửa bao giờ cho pha ”
Nàng càng thấm thía tình cảnh bơ vơ lưu lạc nơi chân
trời góc bể của mình. Nàng ý thức được thân phận của mình nhưng chẳng thể nào gột
rửa được tấm lòng thuỷ chung son sắt dành cho Kim Trọng.
Đoạn thơ đã thể hiện bao cảm xúc, xót
xa, hoài niệm về người yêu.
Chưa nguôi nỗi đau đớn nhớ người yêu, Kiều lại chồng chất thêm nỗi thương
nhớ cha mẹ.
Kiều xót xa nhớ đến cha mẹ:
“Xót người tựa cửa hôm mai
Quạt
nồng ấp lạnh những ai đó giờ
Sân lai cách mấy nắng mưa
Có
khi gốc tử đã vừa người ôm”
Với cha mẹ, nỗi nhớ của Kiều cũng xót xa da diết. Nàng
hình dung cha mẹ vẫn hằng ngày tựa cửa ngóng tin con. Nàng day dứt khôn nguôi
khi nghĩ đến cảnh cha mẹ ở nhà chẳng có ai chăm sóc phụng dưỡng.
Thành ngữ “quạt nồng ấp lạnh”,
điển cố “sân Lai”, “gốc tử” nói lên tâm
trạng nhớ thương, lo lắng, tấm lòng hiếu thảo của Kiều. Nàng tưởng tượng cảnh nơi
quê nhà đã thay đổi mà sự thay đổi lớn nhất là “gốc tử đã vừa người ôm” nghĩa là cha mẹ ngày một thêm già yếu.
Trong đoạn thơ, nhà thơ Nguyễn Du đã để
cho Thuý Kiều nhớ tới người yêu trước rồi mới nhớ đến cha mẹ sau chứng tỏ nàng
không thể giấu giếm được nỗi nhớ người yêu da diết mãnh liệt.
Viết về tâm trạng nhớ thương của Kiều, ông đã đặt chữ tình lên trên chữ
hiếu, đảo ngược trật tự của đạo lý phong kiến. Điều đó hoàn toàn phù hợp với tâm
trạng của những người đang yêu, nó chứng tỏ nhà thơ am hiểu sâu sắc tâm lí nhân
vật nên đã thể hiện một cách tinh tế.
Lời thơ ít, ý thơ nhiều, ngôn ngữ độc
thoại nội tâm được sử dụng một cách tài tình, trong lời thơ như có nhịp thổn thức
của một trái tim yêu thương đang nhỏ máu.
Cách sử dụng ngôn ngữ văn học cũng rất
độc đáo. Ở đây có cả thành phần thi liệu lấy từ điển cố Trung Hoa như quạt nồng ấp lạnh, sân lai, gốc tử…nhưng
chủ yếu là ngôn ngữ dân tộc với nhiều yếu tố thành ngữ, tục ngữ như rày trông mai chờ, tựa cửa hôm mai…
3.
Tâm trạng buồn lo của kiều.
Đoạn thơ diễn tả tâm trạng của Kiều trong cảnh ngộ hiện
tại, Nguyễn Du đã chọn cách biểu hiện “tình
trong cảnh ấy, cảnh trong tình này”.
Bút pháp tả cảnh ngụ tình được thể hiện rất đặc sắc, trong đó ngoại cảnh
luôn luôn thể hiện tâm cảnh. Nỗi buồn được diễn tả hết sức gợi cảm và tinh tế.
Mỗi cảnh vật qua con mắt của nàng đều gợi những nét buồn khác nhau.
- Cánh
buồm thấp thoáng xa xa nơi cửa bể,
lúc chiều hôm đã gơị lên trong lòng nàng
một nỗi buồn da diết nhớ về quê nhà xa cách, trong đó ẩn chứa một chút hi vọng
về ngày đoàn tụ.
- Nhìn cánh hoa trôi man mác trên ngọn
nước mới sa, Kiều xót thương cho thân phận của mình như hoa trôi bèo dạt, lênh
đênh chẳng biết sẽ đi đâu về đâu.
- Nội
cỏ rầu rầu với một màu xanh xanh
trải dài đến tận chân mây mặt đất gợi ra một không gian bao la
khiến nàng Kiều cảm thấy cô đơn lạc lõng, chán chường, tuyệt vọng cho cuộc sống
hiện tại không biết sẽ kéo dài đến bao giờ.
- Thiên nhiên xung quanh thật dữ dội với
gió cuốn mặt duềnh, ầm ầm tiếng sóng kêu
quanh ghế ngồi lại gợi lên ở nàng tâm trạng hãi hùng lo sợ trước những tai
hoạ như lúc nào cũng rình rập, vùi dập cuộc đời của nàng.
Với bút pháp nghệ thuật tả cảnh ngụ tình
và việc sử dụng sáng tạo ngôn ngữ văn học, Nguyễn Du đã khắc hoạ được một cách
sinh động bức tranh ngoại cảnh và tâm cảnh.
Những hình ảnh trong đoạn thơ như cánh buồm, hoa trôi, nội cỏ, tiếng sóng…vừa
tả thực vừa mang những ý nghĩa ẩn dụ gợi mở nhiều liên tưởng, nói lên tâm trạng
của Thuý Kiều trong những ngày đầu tiên lưu lạc
Đặc biệt là cách dùng nghệ thuật điệp
ngữ liên hoàn buồn trông đặt ở đầu dòng
thơ với một cấu trúc hoàn chỉnh có tác dụng tô đậm, nhấn mạnh nỗi buồn của nàng
đồng thời tạo âm hưởng trầm buồn cho lời thơ.
Bốn lần buồn trông mở ra bốn
cảnh tượng. Cảnh trong đoạn thơ có trời mây, biển cả, có màu xanh đồng nội,
cảnh vật nhìn từ xa đến gần, tất cả đều mờ ảo, mênh mông dường như được nhìn
qua làn nước mắt.
Đó là điệp khúc của đoạn thơ và cũng là điệp khúc của tâm trạng nhân vật.
Đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích là một bức tranh tâm tình buồn thảm làm đau
xót lòng người. Chỉ với hơn hai mươi câu thơ nhà thơ đã vẽ nên bức tranh tâm
trạng nhân vật có cả buồn thương da diết, nỗi cô đơn, sự xót xa cho thân phận
mình. Chính điều ấy làm cho ta thêm xót thương cho nhân vật và căm giận cái xã
hội đã gây ra đau khổ cho con người.
Qua đoạn trích, người đọc không chỉ cảm thương
với nỗi buồn của nhân vật mà từ trong nỗi buồn ấy vụt lên một tiếng kêu thương,
một lời tố cáo. Đó cũng là cảm hứng nhân đạo của một con người “có con mắt trông thấu cả sáu cõi, có tấm
lòng nghĩ suốt cả nghìn đời”, đó cũng là giá trị nhân văn của tác phẩm.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét