* Bài thơ “Đất nước mình ngộ quá
phải không anh” của Trần Thị Lam – gv Văn trường THPT Chuyên Hà Tỉnh và lời bình
của Đặng Văn Sinh
ĐẤT
NƯỚC MÌNH NGỘ QUÁ PHẢI KHÔNG ANH ?
Đất nước mình ngộ quá phải không anh
Bốn ngàn tuổi mà dân không chịu lớn
Bốn ngàn tuổi mà vẫn còn bú mớm
Trước những bất công vẫn không biết kêu đòi...
Bốn ngàn tuổi mà dân không chịu lớn
Bốn ngàn tuổi mà vẫn còn bú mớm
Trước những bất công vẫn không biết kêu đòi...
Đất nước mình lạ quá phải không anh
Những chiếc bánh chưng vô cùng kì vĩ
Những dự án và tượng đài nghìn tỉ
Sinh mạng con người chỉ như cái móng tay...
Những chiếc bánh chưng vô cùng kì vĩ
Những dự án và tượng đài nghìn tỉ
Sinh mạng con người chỉ như cái móng tay...
Đất nước mình buồn quá phải không anh
Biển bạc, rừng xanh, cánh đồng lúa biếc
Rừng đã hết và biển thì đang chết
Những con thuyền nằm nhớ sóng khơi xa...
Biển bạc, rừng xanh, cánh đồng lúa biếc
Rừng đã hết và biển thì đang chết
Những con thuyền nằm nhớ sóng khơi xa...
Đất nước mình thương quá phải không anh
Mỗi đứa trẻ sinh ra đã gánh nợ nần ông cha để lại
Di sản cho mai sau có gì để cháu con ta trang trải
Đứng trước năm châu mà không phải cúi đầu...
Mỗi đứa trẻ sinh ra đã gánh nợ nần ông cha để lại
Di sản cho mai sau có gì để cháu con ta trang trải
Đứng trước năm châu mà không phải cúi đầu...
Đất nước mình rồi sẽ về đâu anh
Anh không biết em làm sao biết được
Câu hỏi gửi trời xanh, gửi người sau, người trước
Ai trả lời dùm đất nước sẽ về đâu...
Anh không biết em làm sao biết được
Câu hỏi gửi trời xanh, gửi người sau, người trước
Ai trả lời dùm đất nước sẽ về đâu...
Trần
Thị Lam
Trường PTTH
chuyên Hà Tĩnh.
***
Điều dễ
nhận thấy là bài thơ ra đời vào thời điểm những bất cập xã hội đã vượt quá giới
hạn chịu đựng của con người. Đó là những dòng cảm xúc bất chợt dâng trào mà điểm
nhấn của nó là hàng loạt câu hỏi như những dòng cảm thán được hình thành từ tâm
thức của một công dân quá yêu đất nước mình.
Bố
cục bài thơ gồm năm khổ, trong đó, mỗi khổ đều mở đầu bằng một câu hỏi tu từ được
thiết lập trong mối quan hệ đồng đẳng. Câu hỏi tu từ, nghĩa là, hỏi chỉ để tạo
ra hiệu ứng thẩm mỹ, không cần phải trả lời, bởi câu trả lời đã nằm sẵn trong cấu
trúc nội tại văn bản. Đây chính là nét đặc trưng của thi pháp thơ truyền thống,
không chỉ với người Việt mà cả với cộng đồng nhân loại.
Các
câu hỏi mở đầu cho mỗi khổ thơ “Đất nước mình ngộ quá phải không anh”, “Đất
nước mình lạ quá phải không anh”, “Đất nước mình buồn quá phải không anh”, “Đất
nước mình thương quá phải không anh”, “Đất nước mình rồi sẽ về đâu anh?”, được
xem như cùng một cấu trúc ngữ pháp, sử dụng nhuần nhuyễn lớp từ vựng thông dụng,
rất gần gũi với đời sống thường nhật, không chú ý đến các biện pháp tu sức
nhưng lại có khả năng biến thái linh hoạt, tạo nên giá trị biểu cảm không giới
hạn. Thông thường, với thể loại thơ thế sự cảm thán, những câu hỏi tu từ, luôn
được bố trí theo trình tự từ cụ thể đến trừu tượng, khái quát (hoặc ngược lại)
để diễn tả một hiện tượng xã hội, lịch sử hay văn hóa, cuối cùng, ý tưởng được
“gói” lại trong câu kết làm bài thơ bỗng sáng lên, tạo ấn tượng mạnh với người
tiếp nhận gọi là thủ pháp nghệ thuật ngôn từ. Ta có thể kiểm chứng đặc điểm này
qua bài “Chợ” của Nguyễn Duy với lời đề từ khá hài hước “Kính tặng vợ nhân đầu
năm Con Khỉ”.
Bài có
bốn khổ thì ba khổ đầu sử dụng câu hỏi tu từ ở cấp độ phi đồng đẳng tăng tiến
theo trình tự từ cụ thể đến trừu tượng tạo ra không gian cảm xúc đa chiều với
nhiều cung bậc tâm trạng: “Có món ngon nào giá rẻ không em?”, “Có đam mê
nào giá rẻ không em?”, “Có yêu thương nào giá rẻ không em”, “Có hạnh phúc nào
giá rẻ không em?”. Và, cứ sau mỗi câu lại là một diễn ngôn trần tình đầy chất
bi hài, diễn tả tâm trạng ai oán của một nhà thơ được mẹ sinh ra gắn với “câu sấm
mệnh con cò”.
Như vậy,
về mặt bố cục tổng thể hay đặc trưng thi pháp, “Đất nước mình ngộ quá phải
không anh” có vẻ như không mấy đúng với “niêm luật” của loại hình thơ “thế sự”
dùng các câu hỏi tu từ làm phương thức biểu đạt ý tưởng thẩm mỹ nếu nhìn nhận
nó qua cách phân tích quan phương. Sẽ rất sai lầm, nếu chỉ tiếp cận bài thơ qua
cái nhìn xã hội học dung tục, rồi vận dụng phương pháp phê bình chỉ điểm. Bằng
công nghệ này, người ta có thể chọn ra không ít câu chữ vốn hiền lành nằm trong
hệ thống logique ngữ nghĩa, nhưng được cho là có dấu hiệu “vượt đèn đỏ”, phạm
“kỵ húy”, rồi gán cho nó đủ thứ tội danh, thậm chí còn dùng cả bộ máy công quyền
răn đe tác giả tác giả. Thực chất, đó là cách nói lấy được của những kẻ độc quyền
chân lý, ở tầm văn hóa thấp nhưng lại đầy quyền lực, muốn thâu tóm mọi lĩnh vực
xã hội để dễ bề cai trị, trong đó có văn học nghệ thuật, một lĩnh vực rất dị ứng
với chủ trương “đồng phục”.
Một vấn
đề được đặt ra là, bài thơ bình thường như “Đất nước mình ngộ quá phải không
anh”, vì sao làm thổn thức hàng triệu con tìm người dân đất Việt, vì sao tạo ra
cơn chấn động tâm lý, qua đó hâm nóng tình yêu đất nước, lay động cả dân tộc bỗng
chốc bừng tỉnh về thân phận mình sau bao nhiêu năm choáng ngợp bởi ánh hào
quang quá khứ thẩm thấu vào mỗi đường gân thớ thịt bằng đủ chiêu thức tinh vi của
công nghệ tuyên truyền? Câu trả lời quá đơn giản. Bài thơ được sáng tác trong một
khoảnh khắc xuất thần được nâng đỡ bởi niềm cảm xúc chân thành và lòng yêu nước
vô bờ bến cộng với một chút năng khiếu trời cho. Cái năng khiếu ấy chính là sự
dung dị của những khổ thơ không cầu kỳ làm dáng, không cố gò từ, ép vận, không
làm lạ hóa câu chữ mà mấu chốt của nó là sự liên kết đa chiều qua lớp từ vựng
dân dã, tạo nên sự bùng nổ hiệu ứng thẩm mỹ. Cũng cần phải nói, ý tưởng
về bài thơ chắc là đã được tác giả ấp ủ từ lâu, nhưng chất xúc tác làm đẩy
nhanh quá trình hình thành tác phẩm có lẽ là hội chứng Formosa. Thứ chất độc
không qua xử lý hàng ngày thải ra làm tuyệt đường sinh sống của cả triệu ngư
dân vùng biển miền Trung, qua ngôn ngữ thơ, đã làm thức dậy phẩm giá con người
vốn vẫn tiềm tàng trong ý thức cộng đồng dân tộc.
Nếu đọc
bài thơ bằng con mắt khác, tâm thế khác, ví như dước góc độ lịch sử hay triêt
lý dân gian, chắc chắn sẽ tìm ra được những thông điệp mới, trong đó có một vấn
đề rất đáng quan tâm đó là “hằng số dân tộc”. Để làm được điều này, trước hết
chúng ta phải có đủ sự lương thiện của người tử tế, không lệ thuộc vào câu chữ
vốn luôn được các nhà kiểm dịch coi là nhân tố quan trọng để đánh giá lập trường,
tư tưởng người sáng tác, mà biết nhìn vào cấu trúc tổng thể, loại trừ những định
kiến xã hội, bài thơ sẽ hiện ra dưới một diện mạo khác, hàm chứa yếu tố nhân
văn, nhân ái như là một chiều kích văn hóa. “Hằng số lịch sử” hay “hằng số dân
tộc” là một khái niệm khá trừu tượng nhưng có thật và rất quan trọng, nó song
hành và chi phối mọi suy nghĩ, hành động của cộng đồng Việt tộc suốt chiều dài
mấy ngàn năm dựng nước và giữ nước. Hằng số ấy chính là đặc trưng của nền văn
hóa bao hàm các giá trị sống, trong đó có không ít mặt khuyết tật cha ông ta di
truyền lại. Có lẽ cũng vì thế mà, Chế Lan Viên, sau mấy chục năm viết “Tổ quốc
bao giờ đẹp thế này chăng?”, trước khi qua đời ông lặng lẽ phản tỉnh bằng “Ảo
tưởng” và “Bánh vẽ” hoặc “Ai? Tôi?”, còn Tố Hữu thì ngậm ngùi với “Một tiếng đờn”
vào lúc tuổi xế chiều sau khi đã mất hết mọi chức tước. Từ đó có thể thấy, cô
giáo Trần Thị Lam không phải là người đầu tiên và chắc chắn cũng không phải là
người cuối cùng, hình tượng hóa cái nét “đậm đà bản sắc” ấy thành thơ, đem đến
cho công chúng một cái nhìn khác về bản chất dân tộc mình.
Cái
khác lạ của bài thơ chính là ở chỗ chỉ có các câu hỏi mà không có lời đáp như
Huy Cận đã từng viết trong “Các vị La Hán chùa Tây Phương” vào những năm sáu
mươi của thế kỷ XX. Đó là những câu hỏi không chỉ dành cho lịch sử, nghĩa là một
thời đã qua, mà còn hỏi về tương lai, một tương lai đầy bất trắc khiến những kẻ
lạc quan nhất của thời hiện tại cũng phải lắc đầu. Nói một cách hình ảnh, “Đất
nước mình ngộ quá phải không anh?” chính là sự ẩn dụ tư cách của dân tộc Việt về
nỗi cay đắng cho số phận cứ mỗi thế hệ lại tự làm mình lu mờ đi trước nền văn
minh nhân loại. Xin đừng đổ cho vị trí địa chính trị, thiên tai hay “suy thoái
kinh tế toàn cầu” sau khi đã véo von tự nâng lên mình lên “đỉnh cao muôn trượng”
để phóng tầm mắt thiển cận nhưng đầy ngạo mạn “Ta đứng đây mắt nhìn bốn hướng/
Trông lại ngàn xưa trông tới mai sau/ Trông bắc trông nam trông cả địa cầu”. Về
khoa “tướng số dân tộc”, có thể nói, không ai vượt mặt Tản Đà. Cách đây 84 năm,
nhà thơ từng công khai “đem văn chương đi bán phố phường” này đã có lời phán
“xanh rờn” gói gọn trong một mệnh đề đơn giản những làm lạnh gáy các nhà cách mạng
đang cổ xúy cho phong trào giữ gìn quốc hồn quốc túy:
“Dân hai nhăm triệu ai người lớn
Nước bốn
ngàn năm vẫn trẻ con”
(Tản Đà, 1932)
Tuy
nhiên, trước đó năm năm, ít ai biết được, nhà thơ ngông ngạo xứ Đoài lại có lời
tiên tri cho số phận dân tộc trong một bài thơ chống tham nhũng đầu tiên ở Việt
Nam:
“Cũng
bởi thằng dân ngu quá lợn
Cho
nên quân nó dễ làm quan”.
(Tản
Đà, 1927)
Như vậy,
trong bài thơ của mình, Trần Thị Lam đã sử dụng ý tưởng của bậc tiền nhân để
làm sáng tỏ một hiện tượng văn hóa Việt bằng hai câu thơ đầy cảm khái: “Bốn
ngàn tuổi mà không chịu lớn/ Bốn ngàn tuổi mà vẫn còn bú mớm”.
Đấy là
sự thật nhưng không dễ chấp nhận bởi xưa nay người Việt thường chỉ thích được
khen, nếu không được khen thì sáng tác những lời văn hoa mỹ, kêu như chuông
khánh để tự sướng. Từ thói quen ấy đương nhiên người ta xếp những đối tượng chê
mình vào loại “suy thoái đạo đức” thậm chí “thế lực thù địch”. Từ đó mới nảy
nòi ra hàng loạt cây bút suốt đời chỉ viết tụng ca đến nỗi có kẻ độc mồm độc miệng
gọi là…bút nô.
Trong
các giá trị sống được tích hợp từ nhiều thành tố, đa số trong chúng ta có cái
“đức” cao tót vời so với dân tộc khác là ít khi dám nhận cái sai về mình, thường
là đổ lỗi cho khách quan theo phương châm “Mất mùa là bởi thiên tai/ Được mùa bởi
tại thiên tài…”. Khi ta cúi đầu chân thành nhận lỗi trước người khác, nghĩa là,
trong sâu thẳm tâm hồn vẫn còn ý thức được phẩm giá. Không có cái đó con người
trở thành vô cảm. Một dân tộc liệu có được xếp vào loại “tiên tiến, đậm đà bản
sắc” khi trèo lên đầu nhau giành mua mảnh giấy in hình chiếc ấn ngụy tạo, hay
thẳng tay nện vào mặt nhau tranh cướp phẩm vật trong lễ hội Đền Gióng mà có vị
quan chức gọi là “cướp có văn hóa”? Hội chứng đám đông, những cơn lên đồng tập
thể từ hàng ngàn lễ hội phù phiếm nặng mùi chụp giật dường như đã đẩy cả một cộng
đồng người vào cơn mê muội. Đương nhiên, chính chúng ta, chứ chẳng cần phải đợi
đến các thế hệ mai sau sẽ lãnh đủ những hệ lụy theo quy luật nhân quả nếu như
trong tâm thức mỗi người vẫn nuôi ảo tưởng về những công trình thế kỷ hoành
tráng hay kỷ lục Guiness bệnh hoạn:
“Rừng
đã hết và biển thì đang chết
Những
con thuyền nằm nhớ sóng khơi xa…”.
Bài
thơ không quy “tội” cho ai mà chỉ nêu ra hàng loạt câu hỏi tạo ra chuỗi liên kết
ngoài văn bản ngôn từ. Lịch sử không thể lặp lại cũng như không thể sửa chữa bởi
nó đã thuộc về phía bên kia của trục thời gian. Nhưng lịch sử là tấm gương phản
ánh hiện thực xã hội để con người hiện tại và tương lai nhìn vào đó điều chỉnh
hành vi của mình. Trớ trêu thay, đôi khi lịch sử của dải đất hình chữ S này lại
hiện diện không giống với chính nó mà được phóng đại nhiều lần, làm mờ đi những
tì vết, chỉ còn ánh hào quang rực rỡ. Bệnh vĩ cuồng đang trở thành mốt thời đại.
Ở một mức độ nào đấy, bài thơ ngầm chỉ ra, chúng ta đang gặm nhấm dần thứ vinh
quang ảo như một liều thuốc an thần xoa dịu cơn đau có thật của hiện tại đắng
chát bằng liệu pháp AQ.
Lịch sử
nhân loại đã từng chứng kiến, một dân tộc muốn “cất cánh” thành rồng thành hổ,
sánh vai cùng cường quốc năm châu, trước hết không phải bằng sức mạnh quân sự
mà bởi các giá trị văn hóa. Văn hóa suy đồi, đạo đức xuống cấp, cho dù sở hữu
vũ khí hạt nhân, dân chúng vẫn nhếch nhác đói nghèo. Ấy là chưa tính
đến cấu trúc xã hội lại xây dựng trên nền tảng học thuyết lạc hậu, không tưởng,
chủ trương kích động bạo lực. Thứ học thuyết ấy chính là liều doping tuyệt hảo,
giống như có dại gặp mùa xuân tha hồ sinh sôi nảy nở những giá trị tiêu cực
trong môi trường chính trị vốn là sản phẩm nối dài của hệ ý thức phong kiến tập
quyền. Đây cũng chính là nỗi trăn trở của tác giả về một tương lai đầy bất trắc:
“Di sản
mai sau có gì để cháu con trang trải
Đứng
trước năm châu mà không phải cúi đầu…”.
Tệ ăn
cắp , thói ích kỷ và bệnh vô cảm chẳng những làm cho cộng đồng người Việt mất
đi sự gắn bó cho một dự án tương lai chung mà còn khiến bạn bè quốc tế nhìn nhận
chúng ta với thái độ nghi ngại. Quan chức ngoại giao lợi dụng hộ chiếu đỏ buôn
lậu sừng tê, ngà voi không còn là chuyện cá biệt. Có ngài Đại sứ tại Liên Hợp
Quốc chẳng thèm “nghĩ mình phương diện quốc gia”, cùng lái xe đi mò trộm sò ở
vùng biển cấm rồi bao biện với cảnh sát sở tại rằng không biết tiếng Anh (!?).
Nữ phóng viên KT, nếu không phải là con gái rượu của Tổng giám đốc Đài Truyền
hình, chắc chắn sẽ ngồi bóc lịch dài dài trong nhà lao Thụy Điển hay Anh Quốc
vì trò chơi… đạo chích. Còn phi công, tiếp viên hàng không thì lập hẳn một đường
dây tiêu thụ hàng mỹ phẩm chôm chỉa được từ các siêu thị xứ Phù Tang. Tình hình
nghiêm trọng đến mức, không chỉ Nhật Bản mà cả Hàn Quốc, Mã Lai, Singapore đến
Thái Lan… đâu đâu cũng có những tấm biển cảnh báo người Việt về tội trộm cắp bằng
tiếng Việt, rất mất thể diện.
Trong
năm câu hỏi tu từ thì bốn câu đầu có chung nội hàm với chức năng ngữ pháp và ngữ
nghĩa ngang nhau nhưng sắc thái biểu cảm khác nhau, tạo nên sự liên kết bề mặt.
Nếu chỉ dừng lại ở mức độ ấy thì bài thơ không có mấy giá trị. Điểm mấu chốt tạo
nên cái “thần” của tác phẩm lại nằm ở ba câu tiếp sau như là sự nới rộng biên độ
thẩm mỹ. Có thể xem đây chính là sự trả lời qua thủ pháp ẩn dụ bằng một loạt sự
kiện, hình ảnh được liệt kê, tác động khá mạnh vào thị giác, thích giác, tri
giác và linh giác người nghe.
Về mặt
ngôn ngữ, đọc “Đất nước mình ngộ quá phải không anh”, ta rất khó tìm được những
câu chữ cầu kỳ, mới lạ. Những con chữ hiển hiện trước mắt người đọc hầu hết đều
dân dã, hiền lành như hạt lúa, củ khoai trong đời sống thường nhật của người
nông dân. Cấu trúc mỗi khổ xem ra lại càng “cũ” chả khác gì thơ Huy Cận, Tố Hữu,
Tế Hanh cách đây gần sáu mươi năm. Vậy thì cơn cớ gì tác giả Trần Thị Lam bỗng
chốc trở thành một hiện tượng trong làng thơ Đất Việt? Câu trả lời là, ngoài những
phần chúng tôi đã kiến giải về thi pháp ở trên, còn có một yếu tố rất quan trọng
đó là tâm thức người viết trung thực đến tận cùng, đồng điệu với tâm thức nhân
dân trong một thời điểm lịch sử nhạy cảm của dân tộc. Cái độc đáo ở tác giả là
chị đã dùng một thể thơ cũ, kết hợp với số lượng từ ngữ phổ thông tối thiểu,
nhưng lại tạo ra một cấu trúc văn bản với hiệu ứng thẩm mỹ tối đa qua kỹ năng sắp
đặt đầy sáng tạo. Rất dễ thấy, bài thơ không có câu chữ thừa. Tất các thành tố
ngữ pháp, ngữ nghĩa luôn móc xích mới nhau theo một trật tự tối ưu để cuối cùng
có được một văn bản nghệ thuật hoàn mỹ vừa gửi đi một thông điệp xót xa, đau đớn
vừa uyển chuyển ở vần điệu làm lay động biết bao trái tim bạn đọc.
Bài
thơ sẽ sống mãi cùng với thời gian, bởi đã hơn một lần nó làm cho cả dân tộc thức
tỉnh sau cơn mê sảng triền miên bằng loạt câu hỏi được coi như lương tâm thời đại:
“Câu hỏi
gửi trời xanh, gửi người sau, người trước
Ai trả
lời dùm đất nước sẽ về đâu…”
-----------------------------------------
Đặng Văn Sinh - Quê quán: Nam Sách, Hải
Dương
Nghề nghiệp: Gv Trung học phổ thông (đã nghỉ hưu)
Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét