Tô Phán
Một dân tộc có thể chết từ văn hóa, chết bằng văn hóa!
Có một chiến trận không nóng bỏng và gây hiệu quả trực tiếp như mất đất, mất biển, mất người, mất tài sản, mất tự do, mất miếng cơm…, nhưng lại từng ngày, êm ả và ngọt ngào gặm nhấm xã hội, gặm nhấm mỗi con người; mà nếu không nhìn thấy trước, cuối cùng kẻ chiến bại sẽ là cả dân tộc, chịu một cái MẤT lớn hơn tất cả những cái mất nói trên cộng lại.
Một dân tộc bị “thất trận” về văn hóa thì không còn gì cả, đó là một dân tộc bị tan rã và chết, mặc dù hàng chục triệu sinh thể của nó có thể vẫn sống béo tốt ở khắp đó đây, nhưng tất cả đều mất gốc, không còn “căn cước” vì “không lớn nổi thành người” (thơ Đỗ Trung Quân).
Muốn chiếm đứt tận gốc dân tộc ta, những thế hệ xâm lược phương Bắc cũng như thực dân Pháp đều muốn đầu độc văn hóa bằng những vui thú thấp hèn làm cho mất gốc, rồi đồng hóa vào văn hóa của mẫu quốc. Một nghìn năm, rồi 80 năm chúng đều thất bại, dân tộc ta vẫn đứng vững vì ta đã chiến thắng trong cái chiến trường văn hóa rất dai dẳng này. Nhưng hiện nay, trước cục diện kinh tế và kỹ thuật hòa nhập vào thế giới, dân tộc Việt Nam lại đang đứng trước thử thách sự tồn vong đến từ văn hóa, mà số đông vẫn cứ nhở nhơ, thậm chí số quần chúng càng bị nhiễm độc lại càng thấy sung sướng, muốn nhảy cẫng lên vì khoái cảm.
Tuy vậy, ưu tư về nguy cơ là một điều cần thiết, nhưng làm sao ngăn chặn tiến tới loại bỏ được nguy cơ mới là quan trọng. Cũng như mọi vấn nạn, muốn giải quyết phải tìm được gốc rễ, ngọn nguồn. Trong một xã hội, một thể chế thì Văn hóa cùng với Chính trị và Kinh tế hợp thành một chỉnh thể không thể tách rời, trong đó ta đều biết “Chính trị là thống soái”. Vấn nạn gì cũng không tách rời khỏi “lỗi hệ thống” mà nhiều người đã nêu ra, nhưng thế nào là “lỗi hệ thống” thì xem chừng vẫn còn nhiều điều loanh quanh chưa thật sáng tỏ… Và xin thưa ngay rằng đừng vội trách thế hệ trẻ, họ chính là nạn nhân, những “người lớn” về cả nghĩa này nghĩa khác mới là đích danh thủ phạm.
Gần đây xuất hiện nhiều scandal của giới trẻ, văn nghệ sĩ, của những người được coi là “người của công chúng”. Các cuộc xô xát vì váy áo, những bộ ảnh nóng, những cuộc chửi rủa, “ném đá” người khác, các fan phát cuồng vì thần tượng… tràn ngập trên báo mạng, báo in, đến mức tưởng như cuộc sống xã hội không có gì khác đáng quan tâm.
Bên cạnh đó đang xuất hiện những việc làm, hành vi, bài viết truyền bá tư tưởng sùng ngoại (kể cả về lối sống, ăn uống, đi lại, ăn mặc, nhà cửa, việc làm, dạy con cái, đến cả tư duy, quan niệm sống, quan niệm điều hành quản lý xã hội…). Điều nhức nhối là họ cứ làm như những gì của cha ông, của dân tộc đều là thứ lạc hậu, trì trệ, là thứ không đáng xem, đáng nói.
Đó chỉ là những biểu hiện nhìn thấy được. Nhưng điều mà không phải ai cũng cảm nhận được là không ít giá trị văn hóa Việt Nam đã và đang bị thay đổi trong đời sống hằng ngày, thay đổi trong từng con người, trong từng gia đình, trong quan niệm của các tầng lớp xã hội.
Câu hỏi đặt ra: Đó có phải chúng ta đang bị đồng hóa văn hóa khi hội nhập?
Văn hóa có tính phổ quát ở mức độ nào đó, nhất là trong khu vực mà điều kiện khí hậu, thổ nhưỡng, phương thức sản xuất gần nhau. Nhưng văn hóa có những nét khác biệt – tính bản sắc mà ở đó tồn tại sự cắm rễ với các mạch ngầm riêng. Hơn nữa, thái độ cảnh giác, tự vệ luôn có trong tư duy tự thân của mọi nền văn hóa. Nó là tâm thức, là căn cốt của mỗi nền văn hóa. Những điều đó làm nên sắc thái, nền tảng của một nền văn hóa, để phân biệt văn hóa dân tộc này với văn hóa dân tộc khác, tạo nên sức sống mạnh mẽ, đáng tự hào, tự tôn và phải đấu tranh gìn giữ.
Nền văn hóa Việt Nam có sức mạnh riêng, bởi có từ tâm thức truyền từ đời này qua đời khác, không khuất phục sức mạnh kinh tế hay sức mạnh quân sự. Cha ông ta đã tạc vào lịch sử bản sắc văn hóa dân tộc khi khẳng định Việt Nam “Vốn xưng nền văn hóa đã lâu” (Nguyễn Trãi). Cả nghìn năm các triều đại phong kiến phương Bắc tiến hành các cuộc xâm lược Việt Nam, và cùng với đó là quá trình những làn sóng đồng hóa văn hóa Việt theo lối nô dịch thô bạo, vừa man rợ vừa ngọt nhạt. Song, sức mạnh tự thân của văn hóa Việt Nam vừa chống lại mạnh mẽ, vừa ảnh hưởng (tiếp nhận, tiếp biến) có ý thức, đã làm cho cuộc đồng hóa của các triều đại phong kiến phương Bắc thất bại. Nói cách khác, trong lịch sử Việt Nam có sự giao thoa phức tạp giữa các giá trị văn hóa khác nhau bởi hoàn cảnh lịch sử. Quá trình đó diễn ra những lần tiếp thu, tiếp biến vừa có tính chống lại một cách đau đớn vừa có sự tiếp nhận những tinh hoa để hoàn thiện dần những giá trị văn hóa Việt mới, đầy bản sắc nhưng đa dạng mà gốc rễ không hề mất đi.
Như vậy, văn hóa dân tộc Việt Nam qua quá trình giao thoa, tiếp biến theo hướng tích cực không phải là thứ nhập cảng thuần túy. Đó là sự tự tôn dân tộc một cách khoa học, đề cao sự độc lập, chủ quyền lãnh thổ và chủ quyền văn hóa.
Ngày nay, trong xu thế toàn cầu hóa nhiều người nêu ra “hoàn cảnh” để lý giải việc vay mượn văn hóa người khác làm cái của mình một cách thô thiển mà quên bản sắc văn hóa dân tộc. Bản chất của cách lý giải đó là sự ngụy biện, mà ngụy biện thời nào cũng có. Sự giao thoa và tiếp biến văn hóa là đương nhiên trong quá trình phát triển của lịch sử, nhưng mặt tích cực là nó đã tiếp biến những yếu tố văn hóa ưu việt để làm cho văn hóa của dân tộc phong phú hơn. Dù là thời kỳ lịch sử nào thì những người không coi trọng văn hóa tự thân, chỉ chăm chăm mượn cái khác mình và coi đó là tiêu chuẩn của giá trị, đều là bị đồng hóa, bị nô dịch. Thông thường, phía bị đồng hóa, bị nô dịch luôn ở thế bị động nhưng cũng có nguyên nhân là từ sự… tự đồng hóa, tự nô dịch. Bị đồng hóa và tự đồng hóa khác nhau. Khi bị đồng hóa, phía bị đồng hóa ở thế yếu còn khi tự đồng hóa là đã có sự biến chất tự thân. Điều này quả thật vô cùng nguy hiểm.
Bị đồng hóa, bị nô dịch văn hóa trước hết thể hiện rõ nhất ở lối sống, lối ứng xử, trong cách tiếp nhận và thay đổi quan niệm về giá trị vật chất, tinh thần của từng cá nhân, từng gia đình và từng tầng lớp xã hội. Sự nô dịch tăng cao thì từng tế bào (cá nhân) của xã hội sẽ lây lan nhanh chóng và tạo thành trào lưu bị nô dịch văn hóa. Nhiều người đã đón nhận những yếu tố văn hóa ngoại lai không chọn lọc, không đào thải. Vậy nên sự du nhập thô thiển đã dẫn đến những hệ lụy, những bi kịch của mở cửa hội nhập. Trên thế giới hiện nay không thiếu những trường hợp như vậy. Người ta hứng khởi tìm cách ca ngợi, đánh bóng, thậm chí bốc thơm những cái khác mình, người ta lấy cái khác mình để so sánh bằng cách cố tình tạo ra sự chênh lệch (đưa cái khác mình lên cao, ngược lại thì vùi dập giá trị của chính mình), và đương nhiên qua đó họ coi cái gì ngoại nhập cũng là ưu việt. Thái độ cuồng nhận cái gì khác mình nghĩa là đặt mình vào tâm thế bị nô dịch – về bản chất đó là quan điểm, thái độ mang đậm chất nô dịch. Tuy nhiên, thái độ cấm đoán, bài xích những gì không giống mình, cũng đáng chê trách, lên án như thái độ bị nô dịch. Bởi bài xích những tinh hoa của người khác có nghĩa là đã tự đặt mình vào tâm thế thù địch với thế giới bên ngoài, như vậy sẽ không có phát triển.
Khái niệm “bá quyền văn hóa”, “xâm lăng văn hóa” đã hình thành từ lâu. Tùy từng giai đoạn lịch sử mà sự bá quyền văn hóa, xâm lăng văn hóa có những phương pháp khác nhau. Trước kia sự bá quyền, xâm lăng văn hóa thường song hành cùng việc chiếm đoạt đất đai, lãnh thổ; ngày nay nó song hành cùng những cuộc xâm lăng kinh tế, bằng sự tràn ngập phim ảnh, sách báo, văn hóa phẩm, thời trang… Trên ti vi Việt Nam tràn ngập phim Trung Quốc, phim Mỹ, phim Hàn; trên đường phố tràn ngập cách mặc theo phong cách các ban nhạc Hàn Quốc, ban nhạc Mỹ; trong ứng xử xã hội tràn ngập quan niệm và tư duy thực dụng… Một trong những phương pháp hữu hiệu nhất là dùng phương tiện truyền thông để xâm lăng văn hóa. Đặc biệt, khi internet trở thành phổ cập thì dòng chảy của những cuộc bá quyền, xâm lăng văn hóa trở nên mạnh mẽ, tưởng chừng vô tận và không hề có biên giới, nó đánh vào từng tế bào tư duy của cá nhân, nhất là người trẻ tuổi. Ngày nay không cần súng đạn mà chỉ bằng cách mềm mại như nhung, lúc chậm rãi, lúc ồ ạt, những cuộc xâm lăng văn hóa trên thế giới đã diễn ra với những kết quả khủng khiếp.
Nhiều thanh niên ở Việt Nam ngày nay sống không có lý tưởng. Sự tiếp nhận văn hóa từ lớp trẻ đang phổ biến là xu hướng hưởng thụ. Họ cuồng nhiệt tiếp nhận những yếu tố văn hóa ngoại lai không có giá trị nhân văn, thẩm mỹ để sống gấp, sống hưởng thụ và coi như vậy mới là hợp thời thượng. Họ cảm thấy xấu hổ khi không sống theo thần tượng như bạn bè họ. Tình trạng này dẫn đến nhiều giá trị xã hội bị đảo lộn, thậm chí bị vùi lấp và bị dè bỉu, giẫm đạp. Bản thân nền văn hóa Việt Nam có khả năng chống lại sự nô dịch của văn hóa ngoại lai đồng thời tiếp nhận tinh hoa văn hóa để phát triển, nhưng những cá nhân lại không phải lúc nào cũng có khả năng đó.
Gần đây, do mặt trái của văn minh công nghiệp là tư duy vật chất (lấy vật chất làm thước đo hiệu quả), lấy nhịp sống gấp hưởng thụ nhanh làm biểu tượng của sự năng động và cấp tiến, làm đảo lộn hàng loạt giá trị truyền thống, ở một số quốc gia đã xuất hiện xu hướng tìm về với các giá trị văn hóa dân tộc. Đó là một xu hướng khi mà người ta sau một thời gian mải mê đi tìm cái lạ của phương Tây lại muốn quay về những nền tảng có từ trước trong lớp trầm tích của dân tộc và trầm tích của chính mình đang còn rất nhiều giá trị. Đó cũng là một chiều khác, chiều hài hòa để giữ thế ổn định. Vấn đề quan trọng là sự hài hòa phải lan tỏa ở phạm vi rộng hơn, tức là hài hòa giữa giá trị văn hóa truyền thống và giá trị văn hóa ngoại nhập để bảo đảm sự cân bằng, sự tiếp nhận, bổ khuyết, hỗ trợ nhau những giá trị tích cực để phát triển lên những cấp độ mới.
Có thể khẳng định, ở bình diện tổng thể văn hóa Việt Nam ngày nay không bị đồng hóa mà đang tiếp tục giao thoa, tiếp biến để phát triển lên cấp độ mới. Tuy nhiên, chúng ta cũng không thể yên tâm rằng văn hóa của dân tộc không bị ảnh hưởng yếu tố tiêu cực của văn hóa ngoại lai, bởi nhiều cá nhân thay đổi quan niệm về giá trị sẽ dẫn đến thay đổi ở mức độ nào đó trong các tầng văn hóa của nền văn hóa Việt. Vì vậy nguy cơ bị đồng hóa văn hóa là có thật. Phải thẳng thắn để thấy rằng ở một bộ phận xã hội đã và đang bị đồng hóa, bị nô dịch văn hóa. Nếu không có những giải pháp hữu hiệu từ vĩ mô đến cụ thể thì sự lây lan từ một bộ phận này đến các bộ phận khác sẽ gia tăng. Và đến lúc nào đó thì sự bị đồng hóa, bị nô dịch văn hóa ở diện rộng sẽ xảy ra. Đó là việc không thể coi thường, buộc chúng ta phải tỉnh táo khi đối mặt.
T. P.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét