Tác giả: Nguyễn Hoàng Đức
Chương II. Nhân
Phẩm
Làm việc thì dễ
làm người mới khó
Nghĩa là, quan
lại chỉ tồn tại như một chức vụ lâm thời nay còn mai mất, hoặc năm nay còn sang
năm đã thôi , như chức vụ tổng thống ở nhiều nước có nhiệm kỳ là bốn hoặc năm
năm, đến kỳ bầu cử, nếu cử tri không tín nhiệm thì dù có tiếc vẫn cứ phải dời
khỏỉ ghế, và như pháp luật của nước Mỹ, dù tổng thống nào đó có được cử tri
tiếp tục tín nhiệm đi nữa, cũng không thể được giữ chức quá hai nhiệm kỳ- tức
tám năm. Hoặc như người Trung Hoa nói: “Quốc
phá sơn hà tại”, tức là: quốc gia dù tan vỡ, nhưng non sông dân tộc
vẫn tồn tại.
Quốc gia, tức là một chỉnh thể nào đó, thời phong kiến như các nhà Lý, nhà Lê, nhà trần, rồi nhà Nguyễn, nối tiếp nhau lên ngai vàng trị vì đất nước, dù ngai vua có đổi, thì vẫn chỉ là - và chỉ còn một dân tộc Việt Nam trên mảnh đất hình chữ S này. Hoặc bên Trung Quốc, cho dù các dòng họ Hạ, Thương, Chu, Hán, Tuỳ, Đường,Tống, Nguyên, Minh, Thanh, hay Viên Thế Khải rồi nền cộng hoà của Tôn Trung Sơn có nối tiếp nhau nắm quyền bính điều hành quốc gia, mỗi lần binh biến đảo điên, ngai vàng lung lay, người trị vì thay đổi, thì dân tộc Trung Hoa vẫn còn nguyên đó chẳng hề thay đổi tính sắc tộc của mình. Hay như Pháp quốc, dù Napoleon đệ nhất, đệ nhị, đệ tam... rồi cách mạng Pháp 1789 khải hoàn ca lên nắm chính quyền thì vẫn cứ là dân tộc Pháp ấy, thuộc giống Gaulois, chẳng hề biến dạng trong huyết thống.
Quốc gia, tức là một chỉnh thể nào đó, thời phong kiến như các nhà Lý, nhà Lê, nhà trần, rồi nhà Nguyễn, nối tiếp nhau lên ngai vàng trị vì đất nước, dù ngai vua có đổi, thì vẫn chỉ là - và chỉ còn một dân tộc Việt Nam trên mảnh đất hình chữ S này. Hoặc bên Trung Quốc, cho dù các dòng họ Hạ, Thương, Chu, Hán, Tuỳ, Đường,Tống, Nguyên, Minh, Thanh, hay Viên Thế Khải rồi nền cộng hoà của Tôn Trung Sơn có nối tiếp nhau nắm quyền bính điều hành quốc gia, mỗi lần binh biến đảo điên, ngai vàng lung lay, người trị vì thay đổi, thì dân tộc Trung Hoa vẫn còn nguyên đó chẳng hề thay đổi tính sắc tộc của mình. Hay như Pháp quốc, dù Napoleon đệ nhất, đệ nhị, đệ tam... rồi cách mạng Pháp 1789 khải hoàn ca lên nắm chính quyền thì vẫn cứ là dân tộc Pháp ấy, thuộc giống Gaulois, chẳng hề biến dạng trong huyết thống.
Tất
nhiên quan lại, cho đến cả chính thể, là giá trị lâm thời không thể nào sánh
ngang giá trị của dân tộc, tức “nhân phẩm”, mang tính vừa phổ quát vừa trường
kỳ, vừa là cội rễ, vừa xum xuê như hoa lá cành? Nhưng câu trả lời không hề dễ một chút
nào, thậm chí nó còn chứa đựng bao nhiêu mập mờ, biện hộ, ngang trái kiểu
“trống đánh xuôi kèn thổi ngược”, hay “nói một đằng làm một nẻo”. Bởi vì, cái
gọi là nhân dân ư. Tuy rằng rất mênh mông, rất to lớn và quyết định mọi chuyện
chăng nữa, người ta vẫn gọi quần chúng là đám vô danh, hoặc đám “vô lại” tức là
thứ đông đúc, nhạt nhẽo, kém cỏi đến mức chẳng có gì để mà gặp lại. Nhiều chính
trị gia còn ví: quần chúng như một chuỗi số không, chỉ khi nào có con số một,
tức một anh hùng nào đứng trước, thì dãy số không mới trở nên giá trị; như con
số một triệu kia, bao gồm: số một đứng trước, sáu số không đứng sau; nhưng không
có số một, thì sáu số không hoặc có xếp dài thêm nhiều số không nữa cũng chẳng
có ích lợi nào cả.
Nhân phẩm chắc
chắn là lớn hơn quan phẩm rồi, nhưng để trở thành một nhân dân “điều đó đâu có
nghĩa gì”, trái lại, người ta thấy, ở đời đa số đang bon chen leo lên đầu nhau
để được trở thành quốc phụ, quốc mẫu, nếu không thì tỉnh phụ, tỉnh mẫu, không
được thì huyện phụ, huyện mẫu, không được thì cũng phải cố ngồi lên cái chức
trưởng phòng, phó phòng, trưởng ban, phó ban, trưởng nhóm, phó nhóm, “vét đĩa”
nhất cũng phải là tổ trưởng hay tổ phó. Bởi vì xét về mặt lý thuyết: dù nhân
dân, dù dân tộc có quan trọng hơn mỗi cá nhân, điều đó cũng thật hiển nhiên;
nhưng ai đó muốn có chức vụ, là chức vụ cao hơn các cá nhân khác, khi có chức
vụ rồi, thì chức vụ đó được đồng hoá, được đồng nghĩa với giá trị Nhà nước. Tôi
cao hơn anh, vì tôi có được chức sắc do Nhà nước ban cho cao hơn anh, và Nhà
nước đó luôn luôn nhiều tính nhân dân hơn cả tôi và anh.
Đến đây, chúng
ta bắt đầu thấy, câu trả lời rất phức tạp. Nếu nhân dân có cao hơn con số rất
nhỏ các vị quan lại, thì điều đó cũng chẳng khiến những người đã làm quan và
đang muốn làm quan mếch lòng, vì số đông nhân dân vô danh kia có hơn mấy vị
quan chức thì vẫn chẳng nói lên điều gì, trái lại người ta vẫn tiếp tục muốn làm
quan to, để có được so sánh: tôi là một cá nhân, tôi thành đạt và cao hơn nhiều
cá nhân khác (dù rằng tôi có bé hơn nhân dân cũng được, mà nhân dân lại chẳng
là ai cả). Vấn đề của cuốn sách đặc biệt là ở chương này, chủ đích muốn bàn
luận:
1- “Quan nhất thời, dân vạn đại” hoặc “Quốc phá sơn hà tại”, là một điều hiển
nhiên vì: một dân tộc phải có giá trị lớn hơn những cá nhất dù chức quyền to cỡ
não.
2- Nhưng chúng
ta không bàn về so sánh lớn hơn cách hiển nhiên đó, mà là: ngay trong nhân phẩm
của từng cá nhân cũng mênh mông, sâu sắc, cao cả hơn vấn đề chức sắc của vị trí
làm quan. Nếu như làm quan là một mong ước đem lại cho người ta các lợi ích
thật dễ thấy: như oai phong, được ăn trên ngồi chốc, được kẻ hầu người hạ; thì
nhân phẩm đặc biệt trong thời buổi thoát khỏi ách phong kiến nô lệ, và được
giải phóng này, mang lại cho người ta giá trị tự do, đạo hạnh, tự chủ, tự giác,
tài năng thực sự, và một niềm vui cũng như sự thụ hưởng hạnh phúc cũng lớn hơn,
mênh mông hơn, phong phú hơn, và cao cả hơn giá trị chức sắc của quan lại.
Chúng ta cũng sẽ
chứng kiến một cách thực chứng tự nhiên nhất, và cũng lý thuyết nhất, nhân phẩm
cao cả hơn quan phẩm, không phải trên bình diện số đông số với số ít, mà là cá
nhân so với cá nhân. Theo sự bình chọn của tạp chí Gala cuối năm 2005, thì
trong mười ngôi nhà đắt nhất thế giới hiện nay thuộc về các doanh nhân, nhà
sáng chế, tài tử điện ảnh, đạo diễn, ca sĩ gần như chẳng có một chính khách nào
bén mảng đến “top ten” (tốp mười) đó.
Trước hết, ngôi
nhà đắt nhất 100 triệu euro thuộc về doanh nhân gốc Ấn Độ có tên là Lakeshmi
Mital. Đó là ngôi biệt thự được xây dựng vào năm 1840 theo kiểu mẫu của một
cung điện ở Florenz. Kế đó là ngôi nhà của Bill Gate ông vua của máy vi tính,
người có trong tay 48,5 tỉ euro, và ở căn nhà 4.000m2, trong đó lắp đặt tất cả
những phương tiện hiện đại nhất, với tổng trị giá là 75 triệu euro. Rồi nhà của
ngôi sao điện ảnh người Ý Sylvester Stallone trị giá 24 triệu euro. Rồi nhà của
nữ danh ca Jennifer Lopez trị giá 9 triệu euro... (báo Phụ Nữ Thế Giới Xuân
Bính Tuất 2006).
Hiện thực và
những con số chính xác đó, phản ánh rằng, thời hiện đại đã khác hẳn ngày xưa,
xưa kia chỉ có vua chúa là được ở trong những lâu đài, thậm chí các kiến trúc
sư, nhà điều khắc, hoạ sĩ chỉ là những người làm công cho chủ, không thể nào có
thể trở thành chủ nhân của những lâu đài. Vậy mà, giờ đây, ngay cả diễn viên
điện ảnh, ca sĩ, thứ ngày trước kia coi khinh là kép hát “xướng ca vô loài”, có
tài, thì có tiền, và ở trong những biệt thự mà chẳng một quan chức nào sánh nổi.
Đủ thấy tương quan thời đại, đặc biệt với giá trị tự do dân chủ đã đặt con
người vào khung cảnh tiến bộ nhường nào. Ngày xưa, người Việt nói: “Mắt thợ vợ quan”, điều đó cũng hàm nghĩa,
là quan: có quyền, có tiền, mới có thể lấy gái đẹp làm vợ, và giữ được gái đẹp
bên mình (nhưng than ôi, ngay cả Nguyễn Trãi là quan đại thần hạng một kia mà
còn chẳng giữ được người vợ Thị Lộ của mình, đã thế, bị vua bẻ cành hái hoa
chưa đủ, còn rước hoạ sát thân, sát gia, và sát cả ba họ nhà mình, thật thương
thay!)
Chúng ta hãy xét
đến những con số còn cụ thể hơn, lương của Tổng thống Mỹ, một nước giàu mạnh
nhất thế giới chẳng hạn, số tiền khoảng hơn 25.000 đô la mỗi tháng, vậy thì, có
rất nhiều các kỹ sư, bác sỹ, giáo sư, chuyên gia dầu khí có số lương gần xấp
xỉ, đặc biệt với một số nghề như đạo diễn điện ảnh, ngôi sao ca nhạc, hay minh
tinh màn bạc, có thu nhập còn cao hơn nhiều số lương đó ngày xưa, người ta
không dám khoe giầu, vì giầu quá có thể bị nhà vua ra lệnh xung công quỹ chẳng
cần một lý do chính đáng nào cả, ngay ở Việt Nam khoảng cuối thế kỷ XX vẫn còn
xảy ra chuyện “vua lốp” kia, ông làm nghề bơm vá xe đạp, một nghề thấp kém hạng
nhất của xã hội, do biết tự pha nhựa vá xe, bán cho những người bơm vá khác,
sau đó là các cửa hàng, rồi giầu có lên, vậy mà cũng bị Nhà nước chụp cho cái
mũ phát triển tư bản tư nhân, ba bận bốn phen ngồi tù. Hoặc như xa xưa hơn, các
triều đình phong kiến Việt Nam, không cho thứ dân xây nhà hai tầng để sánh với
cung vua, ở các nước cũng có những điều luật ràng buộc theo kiểu đó, không thế
này thì thế khác, vì vậy người dân dẫu có giàu cũng không dám giàu, thậm chí
phải giấu giàu để sống nghèo hèn, ở Trung Quốc chẳng hạn còn có cả một lý
thuyết sống giả ngu để tồn tại, thì đúng là làm dân thường có giàu sang cũng
không được sướng, chính xác hơn là không bao giờ được cả gan có quyền sống
sướng hơn vua
quan. Nhưng giờ đây, thời đại dân
chủ, như chúng ta đã chỉ ra bên trên, những ngôi nhà đắt nhất thế giới lại
thuộc về những người có tài, tinh thông chuyên môn của mình, chứ không thuộc về
lớp vua quan.
Đó là hiện thực
chi ly đến độ có thể đếm được, còn hiện thực diễn ra trên phạm vi toàn cầu
trong suốt vài thế kỷ qua, mạnh mẽ, quyết liệt, bất khả chống cự, đó là cuộc
giải phóng nô lệ và giải phóng phụ nữ. Ngày mùng một tháng giêng năm 1862, khi
Tổng thống Mỹ Lincoln ký vào tuyên bố giải phóng ba triệu nô lệ da đen ở Mỹ, đó
có thể được coi như một kết quả tất yếu trên đỉnh cao trào đã hun đúc cả thế
kỷ, người da đen đấu tranh đòi quyền bình đẳng. Chưa hết, đầu thế kỷ XX, ngay
cả phụ nữ da trắng, là một nửa kề vai sát cánh, là vợ, là em, là con cái của
những người đàn ông da trắng kia đã cột mình cả vào những hàng rào sắt của Nghị
Viện Anh Quốc, đòi cho được quyền bình đẳng, đòi được quyền bỏ phiếu, đòi được
đi làm, một chân đánh máy trong công sở hay tiếp viên ở bưu điện đối với chị em
khó như nơi mà chỉ có các nàng tiên mới dám ao ước. Phong trào lan khắp châu
Âu, Bắc Âu, rồi châu Mỹ. Tại sao người phụ nữ phải đấu tranh ngay với cả những
người đàn ông thân thiết của mình: là cha, là chồng, là anh em? Bởi lẽ họ không
muốn mãi mãi cam chịu là công dân hạng hai.
Hai trào lưu
giải phóng có qui mô làm biến đổi bộ mặt cũng như tương quan toàn cầu đó, nói
lên điều gì? Đó chính là nhu cầu giữa cái gọi là ông chủ và đầy tớ phải đổi
thay. Buộc phải đổi thay không thể nào khác. Tại sao vậy? Như chúng ta đã bàn:
nếu có người muốn làm ông chủ, làm quan trên, tức là họ muốn được trở thành mục
đích của hạnh phúc. Còn kẻ dưới, kẻ nô lệ chỉ là phương tiện để phục vụ mục
đích đó. Nhưng tiếc thay, lịch sử loài người đổ máu tang thương liên tục, chính
là vì những kẻ dưới luôn luôn đấu tranh đòi lật đổ kẻ sống trên lưng mình. Và
nếu có một tầng lớp, hay người nào đó còn bám riết đặc quyền làm ông chủ, thì
kẻ dưới còn quẫy đạp, chống phá, và chờ thời cơ để lật đổ. Bởi thế “oan oan
tương báo”, thâm thù nối tiếp thâm thù, người ta khó lòng được sống yên ổn, sau
đó là hạnh phúc. Ngay cả, người vợ, người mẹ, người con, rồi đến các nô lệ thấp
cố bé họng trong nhà cũng không thể cam chịu mãi cảnh mình chỉ là thứ phương
tiện biết nói phục vụ ông chủ. Đó chính là lý thuyết của Platon về nền cộng hoà
và dân chủ. Ông cho rằng, người ta sẽ lao vào cuộc xung sát nhau liên tục, nếu
không biết chung sống người này tôn trọng quyền lợi của kẻ kia, và ngược lại.
Giả sử, nếu ông chủ lấy thế lực tiền của ra ức hiếp nô lệ của mình, anh ta
không thể chống lại tức thời liền xoay sang lười nhác, lẩn trốn công việc, đánh
cắp đồ của chủ, và chờ cơ hội thuận tiện nhất để trả đũa chủ.
Trong xã hội
chẳng hạn, nếu có hiệp hội các nhà kinh doanh, tất nhiên họ luôn muốn bán đắt
để thu lời, lại có hiệp hội người mua hàng, luôn luôn muốn mua rẻ. Nếu hiệp hội
bán đòi giá cao quá, hiệp hội mua sẽ tẩy chay, làm cho hiệp hội bán không có
đầu ra, phải phá sản; ngược lại hiệp hội bán có thể liên kết ngâm hàng, tăng
giá, làm cho người mua phải mua đắt nếu không sẽ không có đồ dùng thiết yếu cho
đời sống. Hiệp hội ông chủ và hiệp hội làm công cũng vậy, ông chủ muốn công
nhân làm nhiều và trả lương ít, giới làm công thì muốn công việc nhàn hạ, công
cao, được nghỉ nhiều. Nếu hai bên không biết thoả hiệp cùng nhau, thì một đằng
chủ cứ trả lương thấp, thì một đằng công nhân đình công. Ông chủ liền cậy tiền
thuê cảnh sát đến đàn áp, công nhân liền tổ chức lại vừa bãi công vừa đánh trả.
Ngay cuối thế kỷ XX, việc công đoàn Đoàn Kết ở Ba Lan, tập hợp có tổ chức phản
kháng lại mô hình chính trị xã hội chủ nghĩa trong nhiều tháng, kết quả chính
thể cộng sản ở Ba Lan sụp đổ, là một bằng chứng khá rõ cho luận điểm này. Việc
đề cao mình hạ thấp người khác dẫn đến những xung đột đẫm máu bi thương, phải
kể đến trường hợp khét tiếng của Hitler, y muốn đề cao dân tộc Đức gốc Aryan là
thượng đẳng, gây chiến với các dân tộc khác không khác gì số mệnh cuả con mèo
phải ăn thịt lũ chuột hôi hám và hèn kém, đặc biệt là y đã thảm sát dân tộc Do
Thái, đưa cả triệu dân Do Thái vào các trại giết người tập thể, đặc biệt là
trại Auschwitz và khởi động Chiến tranh thế giới thứ II diễn ra trên quy mô
toàn cầu, kết quả quân đội Đức đã bị nhiều nước liên minh đánh bại, Hitler tự
sát, và nước Đức phải ký hiệp ước đầu hàng vô điều kiện. Việc các chính thể ở
Liên Xô cũ và hàng loạt các nước Đông Âu sụp đổ, cũng bởi lý do chính là quá đề
cao, tôn vinh giai cấp công nhân quá, thế còn những doanh nhân, trí thức thì
sao? (ở Việt Nam từng có khuẩu hiệu “trí -
phú - cường - hào đào tận gốc trốc tận rễ”, vậy đấy, trí thức cũng
từng bị xếp cùng loại với cường hào, cả những người giầu có cũng bị xếp tội
cường hào phải gạt bỏ triệt để khỏi cơ cấu của xã hội).
(Còn nữa)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét