Tác
giả: Nguyễn Hoàng Đức
(Sinh năm 1957, học đại học An Ninh - Anh là một
người khác thường mà nhà thơ Đỗ Minh Tuấn gọi là "Anh
hề triết học, chàng Đông-ki-sốt văn chương" – NHĐ: “Với tôi, viết
văn trước hết phải giống làm nghề chuyên môn để đưa ra sản phẩm chuyên nghiệp.
Đó là tiêu chí tối thiểu khi tôi cầm bút. Nhưng viết văn là nghề đặc biệt, nghề
mở đường hay cứu rỗi, hoặc khiêm tốn hơn là "trợ lực" cho các tâm
hồn, đơn giản vì xã hội không có ngành dịch vụ nào thay thế được văn chương để
trợ lực tâm hồn.”)
-------------------------------------------------
“Quan
phẩm và nhân phẩm” đó là tên gọi được Hán hoá, kỳ thực nó có thể mang một
cái tên thuần Việt hơn: “Học làm quan và học làm người”. Học làm quan
khó hay học làm người khó? Hiển nhiên, theo cách nghĩ đơn giản nhất, không ít
người nghĩ: người ta sinh ra đã làm người, không học, dốt nát vẫn cứ làm người,
vẫn ăn, vẫn uống, vẫn xây nhà, vẫn dựng vợ gả chồng, đêm đông lạnh lẽo vẫn có
bạn tình nằm bên gối ấp má kề, rồi vẫn sinh con đẻ cái, như vậy không là con
người sao? Vậy tháng tháng, năm năm , ta vẫn dự đình đám của làng, vẫn dự hiếu-
hỉ vẫn chu toàn cúng giỗ cho ông bà, cụ kị, tổ tiên của ta là người đi hai
chân, ta vẫn đi hai chân, thì làm sao ta có thể tiếp tục không phải là người?
Người Việt có câu: Văn hay chữ tốt không bằng ngu dốt lắm tiền.
Và
cũng còn có câu đưa ra so sánh cái thú làm quan suy đi nghĩ lại trước sau không
bằng cái thú làm người: Nhất sĩ nhì nông, Hết gạo chạy rông, Nhất nông nhì
sĩ.
Tuy
nhiên, đây mới là một phép so sánh chưa đầy đủ mới căn cứ trên vấn đề ăn uống
của dạ dày. Để bắt đầu một cách có chiều sâu, chúng ta thấy, ở đời, theo cách
bình thường và phổ biến, người ta lo học hành đỗ đạt làm quan, chứ mấy ai lo
học làm người bình thường? Người Trung Quốc có câu “Học nhi ưu tắc sĩ”
(học mà giỏi thì làm quan) (1). Người Trung Quốc cũng có câu: Di
tử thiên mãn kim / Hà như giáo độc thư / Dưỡng tử giáo độc thư / Trư trung hữu
kim ngọc (Tức là: Cho con nghìn vàng / Không bằng dạy con đọc sách / Nuôi
con bằng đọc sách / Trong sách có vàng bạc)
Trong
sách không chỉ có vàng bạc, khi người ta đã đỗ đạt làm quan, thì trong sách có
tất cả. Theo nhà văn Vương Sóc của Người Trung Quốc lý giải thì, trong sách có
quyền cao chức trọng, có bổng lộc cung tiến, có lầu son gác tía, có vô số gái
đẹp đến chầu, nghĩa là, có tất cả. Chỉ có làm quan mới được sống trên vai người
khác, theo cách người Hoa vẫn nói “ở dưới một người ( tức vua), còn ở trên vạn
người”. Muôn người phải nhịn ăn, nhịn mặc, nhịn ở, nhịn gái để cung tiến ta,
làm gì làm quan chả thích? Vậy thì cái gọi là học làm người kia lấy gì để sánh?
Bên
trên, chúng ta đã đề cập, có người nghĩ: học làm người thì có gì mà phải học,
vì chẳng cần học ta sinh ra vẫn cứ làm người. Tất nhiên, đó là tiêu chí con
người chỉ đi hai chân. Nhưng cái chúng ta cần bàn là: con người xứng đáng làm
người, vượt lên con người như động vật đi hai chân, để trở thành con người có
nhân phẩm cao quý, và có trình độ thưởng thức đời sống vừa trọng thể, vừa hân
hoan, vừa đáng giá vừa cao cả,. Chúng ta hãy thử quan sát cái nhìn của thi sĩ
Walt Whitman: “Tôi và em chẳng một xu dính túi vẫn mua được hương thơm của
trái đất này”.
Tuy
nhiên, khi dẫn thơ ra, chúng ta mới chỉ có được một cái nhìn chưa rõ nét, bây
giờ nhìn vào cuộc sống mà xem, những buổi hoà nhạc ở Nhà Hát Lớn, tiền mua vé,
so với những nhà giàu hay quan chức lớn thì có bõ bèn gì, vậy mà số người đến
thưởng thức cứ vắng tanh vắng ngắt. Thật như người đời vẫn biết “có tiền chưa
hẳn có hạnh phúc” và chắc sẽ có một câu nói song song “có quyền chưa hẳn đã
hạnh phúc”. Hay âm nhạc không phải sở thích của nhiều vị có quyền, có tiền?
Không hẳn ở những quán karaôkê, lại có không ít vị đến thưởng thức nhạc “bàn
tay vàng” vừa hát vừa có thể vui vầy với các em mắt xanh mỏ đỏ, nhìn vào đấy so
sánh thấy ngay đẳng cấp hạnh phúc, mấy thú vui karaôkê kia làm sao có thể sánh
với giàn nhạc trong phòng hoà nhạc? Ngay các em mắt xanh mỏ đỏ có kể một câu
chuyện rằng: hàng ngày các em tiếp các loại đàn ông đi xe đạp – có, đi ôtô -
có, tóc xanh- có, tóc bạc-có, bình dân – có, đạo mạo - có ... ở ngoài cửa bọn
em đều gọi các vị là “chú” là “bác”, vào đến bên trong bất chấp tuổi tác các em
gọi các vị là “anh”. Nhưng sau khi tiễn các vị ra khỏi cửa bọn em đều coi các
vị là “thằng”.
Làm
quan sướng vì sống trên đầu mọi người và có tất cả ư?
Hãy
nhìn Lý Tổng Quản giúp việc cho mẫu hậu Từ Hy Thái Hậu đời nhà Thanh ở Trung
Quốc kia, bên dưới ngôi Thái Hậu, hao túng tất cả, từ các quan cấp dưới hay các
tỉnh xin vào bẩm tấu đòi thăng quan tiến chức đều phải lót tay cho gã cả vạn
lạng bạc, rồi đến những kẻ trong cung nịnh bợ đòi hắn nói đỡ cho một câu, khi
thì tâng bốc khi thì nói lời thị phi làm hại đối thủ ... tất cả hắn đều thao
túng như một ông vua, chỉ thua chức một ông vua khác là một bà già bị gã bịt
mắt. Nhưng kết cục với quyền lực thao túng cả một đất nước lớn hàng đầu thế
giới,tiền của trong tay nhiều không kể xiết như vậy hắn sống thế nào? Than ôi
hắn chỉ là một hoạn quan, cái của quí của cha mẹ truyền lại để nối dõi cho đời
sau, cũng là cái phương tiện trục lạc lớn nhất nơi thế tục , thế mà hắn bị
người ta hoạn đi rồi thì còn biết sướng vào đâu. Bản thân hắn lúc nào đi cũng
gập người xuống, thưa gửi bẩm tấu phải quì mọp, đúng là cuộc đời của thứ nô tài
chẳng khác gì trâu chó? Chức tước to, bổng lộc nhiều mà sống thế liệu có thể
sánh vai một ông xẩm được tự do gảy đàn ngoài chợ, mồm hát vang bài ca trữ
tình, và ao ước tối về rửa chân lên giường cùng người đẹp? Đây không chỉ là
những lời tán, một cách chính thức có nhiều quan chức cho rằng: nói chúng tôi
làm quan chức là ở trên đầu hà hiếp mọi người ư? Không! chúng tôi cũng chỉ là
nô tài cao cấp mà thôi, bên trên chúng tôi có rất nhiều vị quan lớn hơn và
chúng tôi không thể không phục tùng. Một cách lý thuyết, như người ta vẫn nói
làm quan chỉ là đầy tớ cho dân. Đây không phải là khẩu ngữ xuông mà tất cả hệ
thống nhà nước ra đời cùng toàn thể chức năng hoạt động, quyền lực, và những
con người thực thi, đều chỉ phục vụ con người. Giống một ngôi nhà, dù được
trang trí, bầy đặt đẹp đến cỡ nào đi nữa ngôi nhà được làm ra là để phục vụ
những con người trong đớ? Chứ không thể có chuyện ngược đời con người được sinh
ra để phục vụ ngôi nhà. Giống vậy, Nhà nước chỉ là cái vỏ rỗng bao bọc bên
ngoài để phục vụ mọi người, chỉ khi phục vụ con người nó mới có ý nghĩa; ngược
lại không bao giờ mọi người đi bỏ phiếu lựa chọn quyền lực, lập lên Nhà nước,
để mong trở thành những công dân phục vụ nhà nước, mà luôn luôn là nhà nước
được lập ra để phục vụ mọi người. Về điểm này, Chúa Jesus cũng đã chỉ ra bài
học, Ngài rửa chân cho các tông đồ, dạy họ hãy biết hạ mình để phục vụ lẫn
nhau, và phục vụ người khác. Vào ngày lễ sa-bát, có kẻ thử Ngài, mách Ngài rằng
chính môn đệ của Ngài đã ngắt lúa trong ngày lễ sa-bát, Ngài liền bảo : “người
ta vì con người mà nghĩ ra ngày lễ sa-bát, hay vì lễ sa-bát làm ra con người?”
Ngài nói thêm trong ngày lễ sa-bát, nếu người ta kiêng không làm việc, vậy con
cái ngươi rơi xuống giếng, ngươi có cứu không? Tất nhiên câu hỏi của Chúa Jesus
đã hàm chứa một câu trả lời rõ ràng: vì con người, người ta nghĩ ra ngày lễ
sa-bát, cũng như tất cả mọi ngày lễ trên đời; ngược lại không thể nào có chuyện
vì ngày lễ nặn ra con người.
Câu hỏi làm quan hơn hay làm
người hơn?
Người Việt từ lâu đã nói: “Quan nhất thời, dân
vạn đại”. Nghĩa là, quan là giá trị điểm xuyết giữa cả đại dương nhân dân,
quan trèo lên rồi lại tụt xuống, người có tài thì làm hết nhiệm kì, kẻ bất tài
thì thay thế giữa chừng, đó là chưa kể các quan lại thanh trừng, đấu đá, hất
cẳng lẫn nhau, vì thế: quan chỉ là nhất thời, còn dân vạn đại, vì dân là đại
dương mãi mãi còn lại trong trời đất, như ngày xưa ví: dân là nước, quan là
thuyền, nước có thể đẩy thuyền đi, cũng có thể nhấn chìm thuyền. Người Trung Quốc
có câu: “Quốc phá sơn hà tại”, có nghĩa Nhà nước mất thì sông núi vẫn
còn, Nhà nước có mất thì nhân dân vẫn không thể nào mất được.
Nhưng câu trả lời của chúng ta về việc làm quan hay
làm người, không chỉ được quan sát theo những gì bên ngoài, mà nó còn được căn
cứ trên những tư tưởng cũng như hệ thống lý thuyết của những bộ não lừng danh
nhất. Triết gia Socrate đã phân cấp con người thành ba dạng như sau:
1 - Loại thấp: là Dạ Dày cầu mong những lợi ích và dục vong.
2 - Loại trung: là Tim, khao khát ý chí, tình yêu, danh dự.
3 - Loại cao: là bộ Não khao khát sự thông thái và tham vọng (2).
Ba cấp độ làm người trên, có thể cũng ứng với ba cấp
độ làm người theo cách người Trung Quốc quan niệm:
1 - Lập công: là những loại người thiên về hành động cụ thể, làm
ra chiến công.
2 - Lập ngôn: là những người làm nên sự nghiệp bằng ngôn từ như
viết sách, hoặc đưa ra những phương ngôn mang tư tưởng.
3 - Lập đức: là những người đã làm nên giá trị đạo đức nào đó
khiến người ta noi theo.
Xét theo đó thì những người đi buôn, quan chức có
thể xếp ở hạng một, dù có làm quan đi nữa thì cũng nổi lên và xuất sắc ở hạng
một thôi. Còn những hiệp sĩ theo đuổi ý chí cũng như danh tiếng của mình đã với
đến bậc thứ hai. Còn người leo lên đỉnh chóp của giá trị con người thì là người
theo đuổi giá trị thông thái và giá trị đạo đức thuần khiết.
Đến đây chúng ta có thể còn
ngập ngừng nhưng triết gia Aristote, nhà bách khoa của những bách khoa, đã đặt
nền móng triệt để đến mức, suốt hai nghìn năm nay, người ta khó lòng mà cưỡng
lại. Aristote định đặt ba cấp độ con người dựa trên ba cấp độ mang tính khoa
học.
1- Cấp thực hành (Pratique): là người hoạt động nhắm
đến đối tượng nhưng không tạo ra cái gì ở bên ngoài mình. Là những người làm
chính trị.
2- Cấp sáng tạo (có tính nghệ thuật-Poétique): là những người hướng đến
việc làm ra những thứ bên ngoài mình, như kiến trúc sư tạo ra ngôi nhà chẳng
hạn.
3- Cấp lý thuyết (Théorétique): là những người hướng đến
nhận thức.
Theo đó, những quan chức dù lớn hay nhỏ có tiền hô
hậu ủng chăng nữa, chỉ là những đinh ốc trong hệ thống công quyền. Việc của họ
là ngày ngày tra dầu, vận hành máy móc để cho hệ thống hành chính trơn dầu chạy
đều đều. Đó là một hệ thống trong sạch, còn với hệ thống tham nhũng, tham
quyền, cố vị, hạch sách, gây cản trở và ách tắc thì bộ máy công quyền còn vận
động ậm ạch, xộc xệch, có khi xin một chữ ký, một con dấu công chứng cũng thiên
khó vạn nan.
Làm quan chức, không thể là người tạo ra lý thuyết,
ngoại trừ những nhà chính trị đi tiên phong trên phạm vi toàn cầu. Họ cũng
không phải những nghệ sĩ sáng tạo, như nhạc sĩ sáng tác bản nhạc, hoạ sĩ vẽ bức
tranh, hay nhà văn viết tiểu thuyết. Công việc chính trị hầu hết được duy trì
và vận hành bởi một hệ thống hành pháp – hành chính. Nó đều đều vận động với
những công chức “cầm con dấu” mà người Việt vẫn nói “sáng cắp ô đi, tối cắp ô
về”.
Tất nhiên, giá trị làm quan không thể sánh với giá
trị làm người, bởi lẽ làm quan giống với cột mốc cắm trên đường không thể nào
sánh với tất cả con đường phải mang trên mình nó tất cả các phương tiện vận
hành. Nhưng đặc biệt ở những nước châu Á cụ thể với Trung Quốc và Việt Nam,
tình trạng muốn “học chỉ để làm quan” được ăn trên ngồi chốc người khác là rất
nặng nề, thậm chí có thể chịu thiệt, chịu làm phi tần cả đời chẳng biết đến
tình yêu, để được vào cung vua, được bảo hộ, được ăn ngon, được mặc đẹp dù phải
đánh mất tất cả quyền lợi khác cao quí hơn của con người. Dân Trung Quốc sợ sệt
đến độ, theo nhà văn Vương Sóc họ ngơ ngác làm những con cừu non, như vậy tất
yếu bằng mọi giá họ muốn chen chân vào đường quan lại để tìm lấy “đôi cánh gà
mẹ” che chở của cung đình.
Ở Việt Nam trước kia, triều đình phong
kiến còn phân biệt rõ ràng đẳng cấp quan và đẳng cấp thứ dân. Chỉ có nhà vua
mới được làm nhà có tầng hai, còn dân chúng thì tuyệt đối không được làm. Còn
các quan, theo chức vụ của mình, có thể được xây nhà năm bậc, bảy bậc, hay chín
bậc thềm. Theo đó, người dân dù có giầu đến mấy cũng không thể sống cách xứng
đáng theo ý mình, mà buộc phải sống hèn mọn trong đẳng cấp của mình. Tình trạng
này còn kéo dài sang tận cuối thế kỷ XX, dù các anh trí thức có học hàm học vị
tiến sĩ, giáo sư đi nữa vẫn không thể có tiêu chuẩn nhà ở, bàn làm việc, hay xe
ô tô đi công tác như mấy ông trưởng phó phòng, hay cục trưỏng, cục phó...
Mới đây còn có không ít người đưa ra luận điểm vì
đường giao thông ở Việt Nam quá chật, bởi thế, không nên tạo điều kiện để cho
nhiều người dân đi ô tô, trái lại nhiều ông quan đều đi tìm mua ô tô giá cao
gấp ba tiêu chuẩn qui định cho mình, tiêu chuẩn khoảng 300 triệu đồng, thì các
ông toàn mua xe cả tỷ đồng, càng mua giá cao thì vừa đi xe ông càng có được
tiền phần trăm “lại quả” cho vào túi, theo cách nghĩ đó, thì đường chỉ dành cho
quan đi ô tô, còn dân thì chỉ nên đi xe đạp, xe máy, xe buýt cho đỡ tắc đường.
Xưa kia có lệnh cấm dân đen mặc quần, quần chỉ giành cho vua quan mặc, mà người
Việt đã có câu ca rằng: Có quần ra quán bán hàng / Không quần ra đứng đầu
làng xem quan!
Vì
sự phân biệt đối xử quá khác biệt giữa quan chức và dân chúng mà ở Việt Nam ta, đã hình
thành xu hướng cạnh tranh rất căng thẳng để nhận vào làm việc trong hệ thống
công quyền. Người ta chen chân, mới đầu là làm hợp đồng, sau đó là vào biên
chế, xu hướng đó còn bắt đầu rất sớm với những khoản tiền kếch sù đóng cho con
trẻ để bước vào trường chuyên lớp chọn của Nhà nước; sau là khoản tiền kếch sù
hơn đóng cho cơ quan có được nhiều ưu đãi hơn ... Cứ thế, cứ thế, tình trạng
cạnh tranh rất căng thẳng, và xu hướng đó đang đi ngược lại sự phát triển chung
của toàn nhân loại. Ngay từ thời cổ đại, triết gia Socrate đã cho rằng: muông
thú có muôn loài để chúng tìm kiếm những thức ăn khác nhau mà không rơi vào huỷ
diệt, tôm cá dưới ao cũng có nhiều loài ăn theo ba tầng: tầng mặt nước, tầng
giữa, và tầng đáy, để chúng có thể sống sinh sôi và nảy nở, nhân loại gồm những
con người, mỗi người có một sở trường khác nhau, để họ có thể kiếm sống mà
không cướp đoạt sự sống của kẻ khác; một xã hội muốn phát triển, thịnh vượng,
thì phải “trăm hoa đua nở, trăm nhà đua tiếng”, đằng này, nếu xã hội ta chỉ thu
hút mọi người vào cửa quan, thì sẽ gây ra ắch tắc, dồn ứ, tồn đọng, lộn xộn “khôn
ăn người, dại người ăn” dẫn đến tụt hậu, nghèo hèn cứ nghèo hèn mãi.
Vậy nên, trong chuyên luận của mình, tôi muốn đưa ra
các luận cứ, để chứng tỏ một sự thật quá hiển nhiên rằng: cần phải ưu tiên việc
làm người dồi dào, phong phú, cao cả, đáng chiêm ngưỡng hơn là ao ước chật hẹp
chỉ muốn làm quan hưởng những đặc quyền, đặc lợi hơn người. Tất nhiên, trong xã
hội, ai có sở trưởng chính trị cứ làm chính trị, nhưng còn, ai có sở trường
nghệ thuật hãy làm nghệ thuật, ai có sở trường kinh doanh hãy làm kinh doanh.
Chúng ta đang sống trong một thời đại đã hoàn toàn
lật sang một trang mới, chủ nghĩa phong kiến thối nát đã sụp đổ ở phía sau rất
xa rồi, nô lệ đã được giải phóng, phụ nữ đã được giải phóng, vậy thì không còn
lý do gì để chúng ta còn ao ước làm quan đến độ sẵn sàng chịu thiến để leo lên
đầu thiên hạ. Vậy bây giờ cũng chính là lúc, chúng ta bàn đến việc làm quan và
việc làm người cách bình thản, khách quan, ngõ hầu tìm ra cho mình một cách
sống vừa hợp sở trường, vừa xứng đáng nhất.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét