Nguyễn Hoàng Đức
Văn học Việt quả rất cần soi
gương, bởi lẽ sự phản tỉnh của người Việt xưa nay vẫn rất yếu đuối vì dựa trên
tâm trí văn hóa tiểu nông nhũn nhẽo cảm xúc, lý trí bấy bớt, thiếu đào tạo về
kỹ năng tư duy phản tỉnh, quen tự hào vặt vãnh, rồi mắc chứng đố kỵ tủn mủn
không muốn ai hơn mình, ngay cả con lợn nhà khác cũng không nên có quyền lớn
nhanh hơn con lợn nhà mình.
Dân trí chung đã thế, xét vào
giới văn học, lại chủ yếu là các nhà thơ sản phẩm của đời sống nông nhàn, rong
chơi vu vơ không có mục đích chính yếu nào của cuộc đời lớn hơn việc nhàn tản,
nhưng vẫn tranh thủ vừa du hí vừa lượm lặt kiếm tí danh nhà thơ - nhà văn… Nói
dài dòng nhưng có thể chốt lại một câu: trên bình diện chung, chưa có một phản
tỉnh nào chính thức của giới văn học Việt Nam về trình độ tác phẩm văn học
của mình.
Nói thế này có lẽ chưa được khách quan lắm, công bằng mà nói, mới đây
nhà thơ Hữu Thỉnh Chủ tịch Liên hiệp các hội văn học và nghệ thuật đã nói đại ý
“thế hệ của chúng tôi không có tác giả lớn. Trong ao không có cá to chúng ta
đành bắt tép”. Nhưng đây vẫn chỉ là một sự phản tỉnh hiếm hoi muộn mằn, trà dư
tửu hậu nhiều hơn là chính thức xác nhận. Vậy còn các thế hệ sau ông thì sao?
Những 5x, 6x, 7x, 8x, rồi 9x liệu đã sủi tăm một dấu hiệu nào khả dĩ làm cây
bút lớn cỡ văn hào hoặc thi hào chưa?
Đây chúng ta hãy thử lắng nghe
những phản tỉnh của các văn nhân lớn của Trung Quốc:
1- Tôn Trung Sơn, lãnh tụ lập thuyết của Trung
Quốc, có trình độ học vấn khá cao, bằng bác sĩ, biết tiếng Đức, tiếng Nhật, tác
giả cuốn “Chủ nghĩa tam dân” đã phản tỉnh: Sách Trung Quốc chỉ rặt bạo lực và hận thù,
càng đọc ít sách Trung Quốc càng tốt. Không đọc gì là tốt nhất.
2- Lỗ Tấn, được coi
là cha đẻ của văn học hiện đại Trung Quốc, học vấn cao, biết nhều ngoại ngữ.
Ông phản tỉnh: Người
Trung quốc chỉ giỏi ăn thịt người. Câu
phản tỉnh này bao hàm nghĩa rất rộng, giỏi ăn thịt người tức là trình độ còn dã
man hoang rợ lắm, nói gì đến văn hóa hay văn học?
3- Nhà văn võ hiệp Kim Dung, một người nổi tiếng
đến mức, người Trung quốc nói “không thể là người Trung Quốc nếu chưa đọc kiếm
hiệp của Kim Dung”. Vậy mà tại lễ sinh nhật thứ 80 của mình ông tự nhận: “Tôi
chỉ là Á văn học”.
Xét thấy, văn hóa của Kim Dung
rất cao, ông không vì quá nổi tiếng mà thấy mình thế nọ thế kia. Có một câu rất
phổ biến trong bóng đá mà tuần nào chúng ta cũng được nghe rằng “Phong độ là
nhất thời, đẳng cấp là mãi mãi”. Nhà
văn Kim Dung đã nhận ra điều đó, rằng dù ông có nổi tiếng bao nhiêu, những với
văn học võ hiệp chỉ có đâm chém, không chuyển tải những ý tưởng hoài bão về lý
tưởng hay giá trị con người, văn học của ông chỉ là hạng hai. Chỉ là á văn học
thôi.
Tại sao văn học Việt không tự
mình soi gương mà cứ phải soi gương Tầu? Bởi như trên đã nói, vì đời sống lý
trí suy xét và phản tỉnh của người Việt rất thấp, chúng ta không soi mình vào
những thước đo, vì thế nhân có thước đo của nước láng giềng khổng lồ bên cạnh,
là một cơ hội rất cần thiết cho chúng ta. Kim Dung đã vậy, thử hỏi mấy tác giả
của ta, in ra mấy cuốn sách lèo tèo, được chục nghìn bạn đọc, đã đăng đàn tuyên
bố hoành tráng này nọ, lại còn nhận vơ mình hậu hiện đại, lên giọng tự hào và
dạy dỗ người khác cả những điều mình không hề có như cách tân, nhân cách, đạo
đức thì chẳng vớ vẩn lắm sao? Văn học Trung Quốc với các tác phẩm đồ sộ như
“Hồng lâu mộng”, “Tam quốc”, “Thủy hử”, “Tây du ký”, đã đoạt hai giải Nobel là
Cao Hành Kiện và Mạc Ngôn, hoàn toàn xứng là đại ca để chúng ta soi gương.
Vậy mà mới đây, nhà văn Tàn
Tuyết, trong bài ‘Tác
phẩm vĩ đại trong mắt tôi‘
đã đưa ra những phản tỉnh rất thẳng thắn và mạnh mẽ, lại là một cơ hội hiếm có
khác khiến giới văn học Việt Nam soi lại mình, để thấy tầm vóc mình ở chỗ nào?
Tôi xin trích vài đoạn trong bài của ông: “Bởi quá đề cao và sùng bái truyền
thống của dân tộc mình (Trung
Quốc), cho nên họ đã không thấy được hoặc không có khả năng tiến sâu vào địa
giới của tinh thần. Mà những tác phẩm này chỉ dừng lại cái gọi là “kinh nghiệm
dân tộc”, “tả thực”. Và sức sống của chúng tất nhiên chỉ là sự ngắn ngủi và tạm
bợ; cường độ phê bình về chúng cũng đáng ngờ”.
“Những
tác phẩm vĩ đại đều là những tác phẩm tự kiểm điểm, tự phê phán. Trong danh
sách những vì sao sáng của tôi, có nhiều nhà văn như vậy, chẳng hạn: Homer,
Dante, Jonh Milton, Shakespeare, Cervantes, Goethe, Kafka, Borges, Calvino,
Tolstoy, Gogol, Dostoievski… Trong danh sách này chủ yếu là các nhà văn phương
Tây và có quan niệm phương Tây, bởi tôi cho rằng ngọn nguồn của văn học là ở
phương Tây. Còn Trung Quốc, từ khởi thuỷ, văn học không được xem là sản phẩm tinh
thần tồn tại độc lập. Văn học Trung Quốc từ xa xưa cho đến nay đều thiếu khuyết
đặc trưng cơ bản nhất của văn học – đó là sự nhận thức tự giác về bản chất tự
thân của chính con người. Có nghĩa là, văn học Trung Quốc hoàn toàn thiếu sự
mâu thuẫn giữa chúng với nhau, nó biến các mâu thuẫn này thành tác dụng và kỹ
xảo một cách triệt để. Văn học truyền thống xưa nay đều dựa vào đó và hướng
ngoại (tức là dừng lại ở tầng nông). Dù là tác phẩm vĩ đại trong số đó như Hồng
lâu mộng thì ngày nay nhìn lại cũng đã quá lỗi thời rồi, bởi nó không đủ sức
khiến người ta phải suy ngẫm và phấn chấn, mà sự miêu tả tâm lý cũng quá nông
cạn thiển cận, nó không nói tới mâu thuẫn nội tâm, và giống như văn học từ thời
thơ ấu của loài người”.
“Lỗ
Tấn từng viết một số tác phẩm vĩ đại (toàn bộ Dã thảo và một phần trong tác
phẩm Cố sự tân biên), nhưng số lượng còn quá ít ỏi, sự áp bức về văn hoá đối
với Lỗ Tấn khiến ông chưa kịp phát triển thiên tài của mình. Trong ý nghĩa này,
văn học của đại lục đang đứng trong sự khủng hoảng, những tác phẩm khám phá
nhân tính ở tầng sâu, nâng cao tính dân tộc chưa thực sự trở thành một trào
lưu.
Theo
tôi, các nhà văn Trung Quốc nếu không thắng nổi tính tự tôn dân tộc của mình,
thì không có cách nào vươn tới lý tưởng của văn học. Cho nên, trên văn đàn
Trung Quốc, rất nhiều nhà văn mới 40 tuổi đã bắt đầu thoái hoá, hoặc không viết
nổi nữa hoặc viết qua quýt lừa dối người đọc. Căn nguyên của hiện tượng này là
do tâm lý tự cao tự đại dân tộc mà ra. Văn hoá của chúng ta đã phá huỷ và đầu
độc các thiên tài của chúng ta. Sự khiếm khuyết về tinh thần trong văn hoá
Trung Quốc đã khiến cho văn học đại lục ngày nay không thể sinh sôi và phát
triển được, giống như một đứa bé mang bộ mặt già nua, mãi mãi là một ông già
lõi đời, mãi mãi tự mãn, khéo léo như một người thợ giỏi nhất thế giới; nhưng
chỉ có điều không biết tự kiểm, không biết tự phê” (VnExpress).
Văn học Trung Quốc to lớn thế
mà chỉ là đứa trẻ nhiều tuổi mang khuôn mặt già nua tự mãn. Tại sao? Vì cả đời
nó chỉ khoe khéo khoe khôn, ma lanh khôn vặt kiếm sống. Nhưng nó không lớn và
không tài nào lớn được vì nó không bao giờ biết dùng đến lý trí của người
trưởng thành để soi xét tự phê mình. Nó mãi mãi chỉ là người thợ khéo tay. Tư
tưởng chưa bao giờ leo lên đầu nó để trưởng thành và phát tinh hoa ra tác phẩm
thì làm sao nó trở thành nhà tư tưởng? Tôi đã chạm tay vào cuốn “Hồng lâu mộng”
mà không tài nào đọc nổi. Khi thấy phim đó chiếu trên truyền hình, tôi định bỏ
thời gian xem nó, nhưng không tài nào tiêu hóa nổi trong 10 phút. Chỗ nào, từ
trong nhà ra vườn hay ngoài đường, thường thấy cảnh vô số ông già, hay gái xuất
hiện như những kẻ vô hồn, chỉ làm mỗi một việc bày tỏ, chúng ta thuộc về nhà
khá giả. Thật là vô nghĩa! Và vô tích sự! Viết đến đây, có lẽ không thừa khi
chúng ta ôn lại quan sát của nhà thơ Tản Đà về dân tộc Việt: “Dân hai nhăm triệu ai người lớn? Nước bốn
ngàn năm vẫn trẻ con”.
Giờ hãy xét văn học Việt Nam . Mới đây đã
có vài tác giả trẻ đụng đến cây đa cây đề. Chẳng hạn như nhà văn Nguyễn Tuân,
người ta nói tài giỏi cỡ nào, mà văn học vẫn chỉ loanh quanh chuyện cá kho hay
phở? Còn ông kễnh Xuân Diệu kia, nghe chuyện ông đi khắp nơi bình thơ như huyền
thoại, nhưng thực ra ông có mỗi “bổn” cũ cứ nhai đi nhai lại, nghe cũng rất
thường thôi. Vả lại mới có vài bài thơ be bé xinh xinh dù có hay cũng nhằm nhò
gì? Xuân Diệu là một cây bút khá uyên bác của thơ Việt Nam , ông thạo tiếng Pháp, tiếng Tầu, uyên thâm
kim cổ, là tác giả của cuốn bình thơ “Các nhà thơ cổ điển Việt Nam ” dày cả
nghìn trang, thật đồ sộ. Nhưng ông chưa phải là một nhà thơ đã vượt tầm. Khi
nói chuyện văn thơ với nhà thơ thiếu nhi thần đồng Trần Đăng Khoa, ông chê
trường ca là “ca ca cứt cứt”. Khi nào người ta văng chữ “cứt”? Đó là lúc người
ta thấy bất lực hay cần nguyền rủa. Và với trường ca, phải nói Xuân Diệu bất
lực và bị loại khỏi vòng chiến một cách tuyệt đối. Ông chỉ đủ trình độ để giải
chiếu bình thơ mà không đủ nội hàm để xây “vạn lý trường thành” cho thơ. Tình
trạng làm những đoản thơ lặt vặt làm cho thơ Việt không bước ra nổi khỏi vũng
lầy chen vai thích cánh và bằng vai phải lứa. Vì thế đã có cả nghìn cây bút
xông lên để viết trường ca. Trời ơi nếu soạn được một bản giao hưởng cho thơ
thì bõ gì đám nhặt lá tung hô thán từ kia? Nhưng than ôi, giao hưởng thì phải
có kịch tính, tức có đối thoại, tức có tư tưởng ở bên trong, đằng này mình chưa
tập để có được thì lấy đâu ra? Thế là các trường ca này đều là tổ hợp kéo dài
cắt dán câu giờ không mục tiêu, không đích đến. Đi rất dài nhưng nhìn lại hóa
ra vẫn chỉ là dấu chân đi quanh sân kho hợp tác.
Mới đây, khi nhà văn Mạc Ngôn
được giải Nobel, nhà thơ Trần Đăng Khoa có viết bài đại ý: trong thời gian gần
đây anh thấy không mấy cuốn hay vượt hơn những tác phẩm của Mạc Ngôn như “Mông to vú nở” hoặc “Đàn hương hình”. Anh Khoa nói thế, có lẽ anh chưa đọc và quan tâm
đến những tác phẩm như “Anh em nhà
Caramadop” của Dostoievski, hay “Vụ
kiện” của Kafka… Tôi nói thế không hề võ đoán mà dựa trên những hiện thực
của văn chương Việt Nam .
Để hiểu được những tác phẩm trên, người ta phải uyên thâm thần học, tôn giáo,
và công lý ở mức tiền hiến pháp. Tôn giáo, thần học, công lý phổ quát chưa bao
giờ là mối quan tâm của người Việt cả, vì người Việt sống chủ yếu theo “phép vua thua lệ làng”, và “chuông làng nào
làng ấy đánh, thánh làng nào làng ấy thờ”. Phải nói mặt bằng tri thức của
các cây bút Việt còn rất lẹt đẹt, thuyền thúng bơi khỏi ao làng, ra đại đương
được vài chuyến, tưởng sẽ trưởng thành nào ngờ toàn đi mua ụ nổi, tầu cũ về
kiếm mấy đồng lãi cò con. Làm sao hiểu được lộ trình của những con tầu phá băng
đi tìm những vỉa quặng mới cho nhân loại?
Thơ Việt nam tủn mủn bé bỏng,
cho nên cứ đi chép tập thơ nào của Tầu từ “Kim
Vân Kiều truyện” đến “Tống Trân Cúc
Hoa” hay “Lục Vân Tiên” thì đều
nổi tiếng. Điều đó cũng đúng thôi, giống Trung Quốc chưa đủ trình độ làm tầu
sân bay, thì mua tầu cũ của Nga về, đặt lại tên và độ lại, chép thơ dài còn hơn
làm ra mấy bài thơ ngắn tũn.
Nietszche nói “Rồi một ngày
học trò sẽ phản lại thầy, vì chính học trò cũng có sứ mệnh phải làm thầy”.
Nhiều nhà thơ, đặc biệt thuộc thế hệ già Việt đừng cứ ngửa cổ lên là chẳng nhìn
thấy vòm mái nào khác Nguyễn Du cả. Hãy xé cái vòm ấy ra để nhìn thấy bầu trời
đầy sao lý tưởng của nhân loại. Văn chương gốc của Tầu còn ở mức tả thực, kinh
nghiệm dân tộc, chưa bao giờ nhắm đến lý tưởng cao vời của nhân loại phổ quát,
thì bản sao phái sinh từ bản gốc đó có được bao nhiêu ý nghĩa mà cứ nhìn ngắm
nghía suýt xoa hoài không chán vậy. Để có một nền văn học tiến bộ xứng đáng
chúng ta cần phải có một cách nhìn mới. Văn hào Victor Hugo nói: Sở dĩ có bạn đọc mới vì có văn học mới! Văn học của chúng ta, không chỉ bạn đọc cũ
kỹ lười đọc, mà chính các tác giả cũng cũ kỹ mốc meo luôn, làm sao chúng ta có
văn học mới, mà đòi ảo tưởng về tầm nhìn sẽ xuyên qua cái vòm kể lể trần thuật
cũ như hang hốc của Tầu?
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét