Nguyễn Đức
Dân
Có không ít lần chúng tôi được nghe bình
luận về sự phi lý của câu thành ngữ “con
ông cháu cha” : Sao lại là con của
ông, cháu của cha ? Phải là con cha, cháu ông mới đúng chứ ! Thậm chí, ngay
cả giới nghiên cứu tiếng Việt cũng có người băn khoăn về hiện tượng này, không
nhìn nhận lối nói “con ông cháu cha”
là đúng.
Cũng có chuyện “lô gich” tương tự với
hàng loạt thành ngữ khác như: cao chạy xa
bay phải là xa chạy cao bay mới
đúng …
Muốn hiểu điều này phải nói
về qui luật của một loại thành ngữ (TN) 4 âm tiết trong tiếng Việt, qua đó giải
thích được điều tưởng như phi lô gich trong những TN loại này.
Thế
nào là một TN 4 âm tiết ? Đó là chân
lấm tay bùn, ăn xổi ở thì, là tóc bạc da mồi, nằm gai nếm mật, thất cơ lỡ vận,
là tắt lửa tối đèn, vá trời lấp biển, tô son điểm phấn, bầm gan tím ruột, vào
luồn ra cuối, mạt cưa mướp đắng… Vậy
đó là những lối nói cố định gồm
4 tiếng để nói một ý, một nghĩa nào đó không có ở riêng từng tiếng.
Điều
trước tiên mà chúng ta nhận thấy là ý nghĩa của TN không phụ thuộc vào thứ tự sắp xếp của cặp từ. Nói “xa chạy cao bay” hay
“cao bay xa chạy” thì cũng vẫn
tạo ra một ý như nhau là nhanh chóng rời khỏi một nơi nào đó bằng một phương
tiện nào đó chứ không nhất thiết bằng cách chạy
hay là bay.
Quan
sát thứ hai: Sự kết hợp tiếng nào cũng không quan trọng lắm, người ta không chú ý tới cái lô gich đã chạy là phải xa mà không thể “chạy
cao”…
Quan
sát thứ ba là : Trong TN 4 tiếng, nếu bỏ đi một nửa thì phần còn lại không có
nghĩa hoặc chỉ có nghĩa đen và nghĩa của TN đã biến mất. Ở các TN bới lông tìm vết hoặc bóng chim tăm cá, nếu bạn cắt đi một nửa
thì nửa còn lại “bới lông”, “bóng chim”… chẳng còn bóng dáng của TN
vừa nêu nữa. Thế là cái nghĩa đen “bới
lông”, “bóng chim” chẳng có giá
trị gì để làm nên nghĩa của TN cả.
Đi
tìm qui luật hình thành nghĩa của loại TN 4 tiếng này, quan sát thứ ba cho ta thấy
trong loại TN này luôn song hành hai
cặp kết hợp. Từ quan sát thứ
hai, 4 tiếng của mỗi TN được tách thành hai nhóm: cao, xa và bay, chạy. Hơn nữa
mỗi tiếng của nhóm đầu tiên có thể tùy ý kết hợp với một tiếng của nhóm sau.
Quan sát thứ nhất giúp ta không cần quan tâm tới thứ tự sắp xếp của các cặp đó.
Thế là ta có tới 4 cách nói đều tạo ra cùng một nghĩa: cao chạy xa bay, cao bay xa chạy, xa chạy cao bay, xa bay cao chạy.
Vậy
bản chất của qui luật hình thành nghĩa của TN loại này như thế nào ? Đó là qui luật hình thành nghĩa theo con
đường biểu trưng.
Trong cuộc sống, người ta thường qui ước dùng
một sự vật nào đó để nói lên một điều gì đó. Cách dùng như thế được gọi là biểu
trưng. Chẳng hạn, người Việt chúng ta thường dùng các bộ phận của lục phủ,
nghĩa là ruột, gan, dạ dày, bụng, lòng, phổi để biểu trưng cho ý chí, tâm tư,
tình cảm, tấm lòng… Các bạn có thể kiểm tra điều này qua những TN và tục ngữ: “ruột để ngoài da”, “phổi bò”, “lòng vả cũng
như lòng sung”, “miệng nam mô bụng bồ dao găm”, “suy bụng ta ra bụng người”,
“bụng bảo dạ”…
Tới
đây, hẳn các bạn nhận ra qui tắc làm nên TN “con
ông cháu cha”. Có hai nhóm từ ông,
cha và con, cháu. Nhóm đầu biểu
trưng cho tầng lớp quyền thế trong xã hội, nhóm sau được dùng với nghĩa dòng
dõi, gần như nghĩa đen “con cháu”.
Mỗi từ của nhóm này kết hợp với một từ của nhóm kia, thành hai cặp, đặt cạnh
nhau, thế là làm nên một thành ngữ mà nghĩa (biểu trưng) là “con cháu, dòng dõi nhà quyền thế”. Một
khi chỉ chú ý tới tính biểu trưng thì ta không cần quan tâm tới nghĩa đên của
từng cặp, bởi lẽ nghĩa đen này chẳng có giá trị gì cả, như trên đây chúng ta đã
nêu trong quan sát thứ ba. Thế là không còn có cái chuyện “lô gich” hay
“không lô gich” trong từng
cặp kết hợp nữa : “con cha” cũng được mà “con ông” cũng thế ; ông và cha được
dùng theo kiểu biểu trưng mà !
Cuối
cùng, xin các bạn lưu ý là không phải mọi TN 4 âm tiết đều được cấu tạo theo
qui luật trên. Chẳng hạn, nghĩa của TN “miệng
quan, trôn trẻ” lại được hình thành thông qua sự so sánh hai cặp từ “miệng quan” và “trôn trẻ”. Thuộc tính của cái trôn trẻ con là không sai lường
trước được lúc nào thì bé “tè”, bé “ị”. Điều hiển nhiên này, qua áp lực của
phép so sánh, cũng trở thành thuộc tính của “miệng quan”: tùy tiện, thay đổi
đảo điên khôn lường. Thế là TN này cốt để nói về “miệng quan”. Đây cũng là một biện pháp để hình thành nghĩa của TN,
tục ngữ: qua phép so sánh với một điều hiển nhiên để “ chứng minh” thuộc tính
của một sự vật khác.
1 nhận xét:
Bài viết rất kỳ công .Rất hay
Đăng nhận xét