Nguyễn
Hoàng Đức
Danh dự là gì? Có thể hiểu một cách đơn giản trực tiếp nhất
là: Tên gọi của một người trong giá trị. Trong tiếng Pháp người ta vẫn nói “au
nom de” – nghĩa là Nhân danh ai đó.
Khi nhân danh ai đó,
chắc hẳn là phải cái danh trong sáng, vinh quang, hay cái tên gọi chân thật của
người ta. Một thằng kẻ cướp nhảy ra chặn đường người khác, hô lên “Võ Tòng”
đây, thì dù nó có giả trá cỡ nào, cái tên “Võ Tòng” phải có thực, thì nó mới
mong dùng tên đó để nhát mọi người. Một kẻ lừa đảo nói to “nhân danh công lý”,
cũng vậy, dù sao kẻ đó cũng muốn mọi người được ám ảnh về một công lý thực.
Danh dự là thứ chói
sáng nhất, ý nghĩa nhất, sống còn nhất của con người, nhưng cũng chính vì thế
mà khi bị ô danh, nó là lý do mãnh liệt nhất khiến con người thấy mình không
còn lý do để sống. Một văn hào có viết “Tôi chưa thấy ai treo cổ vì đói rách,
trái lại càng khổ sở thì người ta càng khát sống, nhưng thấy rất nhiều chiếc cổ
treo trên thòng lọng vì không tìm ra ý nghĩa cho đời sống củamình”.
Nhiều học giả Trung
Quốc đã chính thức bàn về cái Danh. Họ cho rằng: cái bất hạnh nhất của con người là “vô lại”. Vô lại
giống như một tiếng vọng bay vào hư vô mà không có tiếng vọng lại. Mấy cánh bèo
trên mặt nước nhẹ thõm vật vờ trôi dạt mà không để lại vết tích gì cũng là vô
lại. Đám người sống không có danh vọng, không có lòng tốt, không giúp ích đời
được cái gì, vô dụng, cũng là cách: đám vô danh không cần gặp lại. Một tình yêu
chia tay, kẻ chia tay bỉ ổi đến mức bị bạn tình rủa xả không hề muốn gặp lại,
thì cũng là vô lại. Lúc đó vô lại đúng là nỗi bất hạnh nhất của thế gian.
Người Việt có câu “trâu chết để da, người chết để tiếng”,
muốn nói rằng đã sinh ra ở đời thì từ con trâu đến con người đều có vật hay
danh để lại. Vậy mà một người vô danh – vô lại thì chẳng bất hạnh nhục nhằn lắm
sao. Vì thế con người nếu không lập công, lập danh, lập đức, quả là vô tích
sự!?
Người Trung Quốc cũng như Việt Nam háo danh lắm. Trong tác phẩm
nổi tiếng Thủy Hử kia, danh là cái cứu vớt người ta trong mọi hoàn cảnh. Chẳng
hạn khi Tống Giang bị trói vào cột buồm, bị những tên cướp hạ thủ đến nơi liền
lẩm bẩm than: “than ôi, Tống Giang lại chết uổng phí thế này sao?” Đầu đảng
cướp liền bảo “Khoan, chúng tôi có mắt mà không trông thấy núi thái sơn!” Thế
là Tống Giang thoát nạn. Còn vô số người nổi tiếng khác, cái danh luôn đi trước
dọn bàn ăn và chỗ ngủ cho họ.
Danh dự đã làm nên những tác phẩm thượng đỉnh của người châu
Âu. Người Hy Lạp quan niệm: đức tính đầu tiên là tính hiếu khách. Hiếu khách
tức là nhắm đến người khác, điều đó là danh dự đầu tiên của chủ nhà. Đó vừa là
lòng tốt vừa là danh giá. Ở Hy Lạp kẻ nào làm mất lòng khách thì là nỗi sỉ nhục
đầu tiên. Khi Paris
cuỗm nàng Helen đi, người Hy Lạp cảm thấy mình bị xúc phạm đã cất quân đi đánh
Tơ-roa. Và Victor dù run sợ trước sức mạnh của A-sin, chàng vẫn ra lệnh mở cổng
thành để ra nghênh chiến vì danh dự. Tác phẩm đồ sộ nhất của mọi thời đại
Đông-ki-sốt, cho dù chàng hiệp sĩ ảo tưởng chỉ đấu với cối xay gió, nhưng chàng
cũng đã đấu hết lòng cho và vì danh dự.
Sau thời khai sáng, văn học châu Âu bỗng nhảy vọt với bài
toán của danh dự. Trước đó, khi bị xúc phạm những người đàn ông có thể đấu
kiếm, nhưng đó là những cuộc đấu không bình đẳng mà lợi thế luôn nghiêng về
nhưng kẻ cơ bắp hơn. Khi khẩu súng lục ra đời thì tương quan khác hẳn, người
yếu có thể đấu với người mạnh khỏe. Và một ý nghĩa mới đã nứt ra khi người ta
lần đầu tiên được thấy: danh dự đồng nghĩa với bình đẳng. Tại sao, dù anh có là
viên tướng hay thị ủy thành phố, ra đường, nếu anh xúc phạm tôi, tôi sẽ ném găng
đòi đấu với anh, nếu anh không đấu thì sẽ mất danh dự, còn nếu đấu tôi có thể
hạ thủ anh dù chỉ là cấp dưới của anh. Danh dự và bình đẳng còn có cơ hội leo
cao rất nhiều, khi người phụ nữ có thể cầm lấy khẩu súng đấu tay đôi với đàn
ông. Và lúc đó nàng đã lật ngược cả sân khấu bất bình đẳng của lịch sử. Ở Việt Nam là
một nơi rất phong kiến mà nàng còn dám ngâm nga :
Tôi vẫn đi bên cạnh cuộc đời
Ái ân lạt lẽo của chồng tôi
Và từng thu chết từng thu chết
Vẫn giấu trong tim bóng một người
Nhưng quan niệm về danh dự giữa châu Á và châu Âu rất khác
nhau. Ở Châu Âu nói chung người ta có thể sống danh dự và trí tuệ thuần khiết,
nhưng ở châu Á, muốn lưu về ở ẩn thì trước hết phải vòng lên kinh đô tráng tí
men quyền hành cho bõ phẩm trật vua quan. Mấy ông ở ẩn, thấy vua quan đi qua,
liền lẻn ra nói vài câu khoe mẽ chữ nghĩa rồi lại lủi mất. Nói chung, người
châu Á thích kiểu khôn của Hàn Tín, chịu nhục chui háng hàng thịt để tồn tại,
sau rồi mười năm báo thù không muộn. Đó là cách đem danh dự đổi lấy sự sống còn.
Bọn Tống Giang kia, hào hùng vênh vang “thay trời hành đạo” một thủa là vậy,
cuối cùng cũng muốn điều đình để đầu hàng triều đình. Làm quan trong triều,
nhưng than ôi cái tục tằn thô lỗ của kẻ cướp vẫn còn, sau bị tiêu diệt cả lũ
thật đáng thương cho thứ giả anh hùng!
Nhà tư tưởng Thoreau của Mỹ nói: Nhà nước là của dân chúng,
nhà nước chỉ thích hợp với những giá trị bình thường của số đông, chứ không bao
giờ thích hợp với những gì cao cả, siêu việt. Người Việt có câu “có cứng mới
đứng đầu gió”. Đó là cách chết ngay còn hơn sống quì. Ở Việt Nam nhà thơ Lê
Đạt (?) đã từng coi đa số nhà văn của ta là “hèn đại nhân”. Tại Trung Quốc một
nhà phê bình có hạng của họ nói: một nhà văn trung bình của châu Âu đã có thể
chết vì bảo vệ ý tưởng của mình, nhưng tất cả nhà văn Trung Quốc thì không có
ai làm được vậy.
Văn học học Âu Mỹ thường xuyên có những câu thế này:
-Một người phụ nữ nói với hàng xóm “tôi đi tìm công lý!”
- Một bà già nói với một đứa bé trai ở chỗ hẹn: “Là đàn ông
thì đừng bao giờ lỡ hẹn”.
- Một bà ăn mày trong công viên nói với cậu bé: “Đừng hứa
nếu không chắc có làm được không!”
Những câu này ở văn học Việt Nam rất thiếu. Văn học Việt nam
thậm chí bới cũng không thấy cuộc đấu nào về danh dự, mà nói chung người ta vẫn
chỉ đấu để tranh ăn. Như vậy có phải: cây không có nhựa danh dự để sinh trái
danh dự. Các nhà văn của ta liệu có giống hội Tống Giang kia về đầu quân cho
triều đình để đòi lĩnh chức lĩnh quyền. Có người đã viết về nhà thơ Tố Hữu rằng
“nhà càng lộng gió thơ càng nhạt”. Tôi rất nể nhà thơ Lam Luyến khi chị làm mấy
câu thơ đại ý “chức càng cao thì thơ càng thấp”.
Nhà nước sinh ra là cần thiết, vì sinh ra để quản lý. Nhưng
quyền lực của nhà nước không phải là quyền lực của chữ nghĩa hay sự vinh quang
thuộc về chữ nghĩa. Nếu nhà tư tưởng Thoreau nói “nhà nước không thích hợp với
những gì cao thượng, chỉ thích hợp với quần chúng và thuế má”, thì người Việt
bảo “miệng quan chôn trẻ”. Nhà tư tưởng Italia, Machiavelli có nói: Làm quan
thì phải biết hứa hão liên tục, nếu thất hứa, thì phải tiếp tục hứa để nuôi ảo
tưởng và hy vọng, và không cần phải dằn vặt khi thất hứa.
Nhà văn Nguyễn Bá Dương, Trung Quốc có viết: Người Âu Mỹ đi
đâu họ cũng có sẵn một câu xin lỗi trên môi, ngược lại người Trung Quốc xin lỗi
rất khó khăn. Ngôn ngữ nào cũng lấy câu chào làm đầu, nhưng câu chào ở Việt Nam khó lắm,
đến mức người Việt phải nói “lời chào cao hơn mâm cỗ”. Rất nhiều nhà văn, nhà
thơ Việt xuất hiện ở đâu là nghiễm nhiên chẳng cần chào, thất hứa hay sai hẹn
chẳng cần xin lỗi, cư xử theo cách quan trên hay ông kễnh văn nghệ theo kiểu ta
có được quyền thất hứa và không cần xin lỗi… Trời ơi cái danh dự của thân chủ
sáng thế tác phẩm mà chẳng bo giờ luyện tập thì làm sao có? bao giờ người văn
học Việt Nam
mới có màn đòi thách đấu vì danh dự? Danh dự đã thấp, thì đời sống và văn học
đều lè tè cả thôi.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét