Nguồn:
GDVN
Chương trình và sách giáo khoa Ngữ Văn vẫn nặng tính hàn
lâm, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển năng lực học sinh - nhất là phát triển
năng lực cá nhân, tính năng động và sáng tạo.
Đó là những đánh giá được Bộ GD-ĐT đưa ra sau khi tổng hợp các báo
cáo và ý kiến thảo luận tại hội thảo khoa học quốc gia về dạy học Ngữ văn ở
trường phổ thông Việt Nam .
Nhiều yếu kém được chỉ ra
Bộ GD-ĐT cũng cho hay, Hội thảo này cũng đã khẳng định chương
trình (CT) chưa nhất quán theo một trục qua các cấp học, nội dung còn nhiều
trùng lặp, tính tích hợp giữa các hợp phần càng lên các lớp trên càng mờ nhạt.
Nhiều bài học trong sách giáo khoa (SGK), nhất là ở các lớp
trên, nặng về lý thuyết, ít có tác dụng rèn luyện kỹ năng cho HS. Một số nội
dung còn cao đối với khả năng tiếp thu của HS, nhất là HS nông thôn, miền núi
và những HS có ở những vùng kinh tế - xã hội khó khăn. Thời lượng dành cho một
số nội dung học tập chưa hợp lý. Hầu hết tác phẩm dạy trong SGK THCS, THPT tuy
có vị trí trong lịch sử văn học nhưng đã ra đời quá lâu, nhiều tác phẩm không
phù hợp với tâm lý của HS hiện nay, do đó không khơi gợi được hứng thú học tập
của các em.
Việc đổi mới phương pháp dạy học và kiểm tra đánh giá vẫn chưa
thựnc sự chuyển biến, nhiều khi còn dừng ở hình thức, chưa có chiều sâu. Phương
pháp dạy đọc hiểu chưa có hiệu quả, giáo viên (GV) chưa chú ý đến việc hình
thành cho HS phương pháp đọc văn bản. Việc kiểm tra đánh giá vẫn chủ yếu là
kiểm tra kiến thức nhớ, tái hiện, làm theo, chép lại,... học tác phẩm nào thi
đúng tác phẩm đó, chưa đánh giá đúng được sự vận dụng kiến thức, chưa chú trọng
việc đánh giá thường xuyên trên lớp học và sử dụng kết quả đánh giá để điều
chỉnh nội dung, phương pháp dạy và học.
Chất lượng đầu ra của sinh viên chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn mặc
dù điều kiện học tập ngày càng tốt hơn. Nhiều SV sau khi ra trường lúng túng
trong việc dạy học bởi khoảng cách giữa việc học tập - thực tập ở nhà trường và
thực tế dạy học. Kiến thức Văn, kĩ năng nghề của SV ngày càng sa sút, chưa coi
trọng học tập và rèn luyện nghiệp vụ sư phạm.
Công tác tuyển sinh còn nhiều vấn đề cần bàn, phương pháp đào tạo
lạc hậu, chưa phát huy tính tích cực và năng lực tự học của sinh viên. Đội
ngũ GV thụ động trong việc đáp ứng những đòi hỏi của việc thay đổi của chương
trình, sách giáo khoa do ý thức tự học, tự nghiên cứu, nâng cao trình độ,
chuyên môn nghiệp vụ còn hạn chế. Công tác bồi dưỡng GV tuy được tổ chức thường
xuyên, nhưng chưa thực sự xuất phát từ nhu cầu của GV, hiệu quả thấp.
Sẽ tích hợp và phân hóa đối môn Ngữ Văn
Cũng theo thông báo của Bộ GD-ĐT, khuyến nghị của hội thảo về định
hướng và giải pháp đổi mới dạy học Ngữ văn trong thời gian tới đó là định hướng
dạy học theo năng lực đòi hỏi các môn học tích hợp một số nội dung tri thức và
kĩ năng nhằm giải quyết các tình huống trong học tập và trong cuộc sống. Tích
hợp các mạch kiến thức lớn (văn học, tiếng Việt và Làm văn, văn hóa) trong nội
bộ môn học qua trục kĩ năng. Ngoài ra, cần tích hợp nhiều hơn, tự nhiên hơn
những lĩnh vực/ môn học khác.
Lấy trục kĩ năng làm chính, việc phân hóa vi mô được thể hiện qua Chuẩn CT các cấp,
lớp học và được thực hiện thông qua quá trình dạy học. Cần chú ý tới hướng tổ
chức nội dung môn Ngữ văn đáp ứng yêu cầu phân hóa vĩ mô thông qua các nội dung
học tự chọn ở các lớp trên nhằm mục đích hướng nghiệp và đáp ứng nhu cầu của
các HS khác nhau về làm văn và văn học.
Bên cạnh đó cũng cần nhận thức đúng vị trí,
vai trò của môn Ngữ văn ở trường phổ thông là: Hình thành và phát triển các
năng lực cốt lõi và năng lực đặc thù của môn học; đặc biệt là năng lực giao
tiếp (kiến thức tiếng Việt cùng với 4 kĩ năng cơ bản: nghe, nói, đọc, viết và
khả năng ứng dụng các kiến thức và kĩ năng ấy vào các tình huống giao tiếp khác
nhau trong cuộc sống) và năng lực cảm thụ, thưởng thức văn học; bồi dưỡng và
nâng cao vốn văn hóa cho người học thông qua những hiểu biết về ngôn ngữ và văn
học, góp phần tích cực giáo dục, hình thành và phát triển cho HS những tư
tưởng, tình cảm nhân văn trong sáng, cao đẹp.
Mạnh dạn thay đổi cấu trúc môn học và cách biên soạn SGK không theo
lịch sử văn học mà cần tuyển chọn các văn bản theo hướng phù hợp với tâm lí lứa
tuổi học sinh, phục vụ có hiệu quả cho việc rèn luyện các kĩ năng (không phân
biệt giai đoạn, thời kì, trong và ngoài nước). Vấn đề lịch sử văn học sẽ được
hệ thống hóa ở các lớp cuối cấp, các chuyên đề chuyên sâu chỉ dành cho HS giỏi,
HS sẽ dự tuyển vào ngành văn; các tri thức lí luận văn học sẽ được tích hợp vào
quá trình dạy đọc văn và dạy viết văn nhằm nâng cao tính thiết thực, tránh lí
thuyết hàn lâm.
Ngoài ra định hướng phát triển năng lực, các môn học đều phải góp
phần hình thành và phát triển một số năng lực chung bên cạnh các năng lực
chuyên biệt của môn học. Theo yêu cầu này, môn Ngữ văn có ưu thế trong việc
hình thành và phát triển năng lực giao tiếp (đó là năng lực chung/năng lực cốt
lõi). Cần trao đổi tiếp để xác định những năng lực chuyên biệt, cụ thể nào
trong môn Ngữ văn cần được hình thành và phát triển ở HS.
Các chuyên gia cũng kiến nghị nên lựa chọn sử dụng các phương pháp
phù hợp, quan tâm sâu sắc, tác động trực tiếp đến hoạt động học của HS để tạo
ra sự chuyển biến trong quá trình học tập. Chú trọng rèn luyện phương pháp tự
học, khả năng hợp tác, khả năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn. Đa dạng hoá
các hình thức hoạt động học tập Ngữ văn, xây dựng môi trường học tập tích cực,
tương tác, thể hiện rõ đặc trưng bộ môn Ngữ văn. Sử dụng phối hợp các phương
pháp để giúp HS rèn luyện các kĩ năng nghe, nói, đọc, viết, hình thành năng lực
giao tiếp, trong đó bao gồm cả giao tiếp đời sống và giao tiếp nghệ thuật. Tăng
cường ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học Ngữ văn, khai thác thế mạnh của
internet và các phần mềm dạy học.
Mở rộng nghiên cứu và chắt lọc những kinh nghiệm quốc tế vào
dạy học và kiểm tra đánh giá Ngữ văn - nhất là khoa học về đánh giá thường
xuyên trên lớp học. Cần vận dụng các bộ công cụ đánh giá quốc tế theo hướng của
PISA để đo
lường năng lực đọc hiểu Ngữ văn của HS. Đổi mới cách ra đề và hướng dẫn chấm
phù hợp để đánh giá được năng lực của người học, tránh hiện tượng học vẹt, viết
theo bài văn mẫu, học tác phẩm nào thi tác phẩm đó.
Tạo
bước đột biến trong đào tạo bồi dưỡng giáo viên
Theo đánh giá của các chuyên gia tham dự hội thảo, đào tạo bồi
dưỡng giáo viên được xác định là khâu then chốt của quá trình đổi mới; phải
thiết kế được một chương trình đào tạo giáo viên bảo đảm tính khoa học cao,
tích hợp giữa khoa học sư phạm và khoa học cơ bản, đáp ứng Chuẩn nghề nghiệp
GV.
Do đó, hướng đổi mới quan trọng nhất là rèn luyện năng lực tự học
và năng lực giải quyết vấn đề của sinh viên, đánh giá đúng tầm quan trọng và
tăng cường các giải pháp, thời lượng cho việc học tập và rèn luyện nghiệp vụ sư
phạm của sinh viên. Nâng cao nhận thức của GV về tầm quan trọng của công tác
bồi dưỡng.
Xác định bồi dưỡng, nâng cao năng lực chuyên môn nghiệp vụ không
chỉ là trách nhiệm của các cấp quản lý mà phải trở thành và xuất phát từ nhu
cầu thường xuyên của mỗi GV. Đa dạng hóa, đổi mới nội dung, phương pháp, hình
thức bồi dưỡng giáo viên nhằm bồi dưỡng toàn diện: về chính trị đạo đức, phẩm
chất, năng lực SP, chuyên môn nghiệp vụ, năng lực kiến thức bổ trợ (tin học,
ngoại ngữ, năng lực tổ chức hội thảo, nghiên cứu khoa học…). Xác định trách
nhiệm và cơ chế phối hợp giữa các cơ quan quản lí giáo dục, trường sư phạm và
giáo viên, trường phổ thông trong quá trình bồi dưỡng thường xuyên GV.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét