Một mùa xuân lại đến - xuân
khắp cả đất trời và xuân trong lòng người. Xuân không chỉ mở ra những gì tươi
đẹp, rạo rực mà còn gợi lại những nghĩa tình quá khứ. Lúc này đây, chúng ta hãy
mở hồn để hồi tưởng về những gì thân thương, ấm áp của quê hương, gia đình, về
những kỉ niệm tuổi thơ đẹp đẽ, thân thương và chứa chan tình nghĩa.
Dòng hồi tưởng có thể đến từ
một bếp lửa, một bài thơ… Có lẽ nhà thơ Bằng Việt trong những năm tháng xa quê
đi học tại Liên Xô đã viết bài thơ “Bếp lửa” trong dòng cảm xúc ấm lòng như
thế. Những kỉ niệm về người bà và tình bà cháu trong tâm thức của nhà thơ vừa sâu
sắc, thấm thía vừa quen thuộc với mọi người.
Làng quê Việt Nam từ bao đời nay đã đi vào tiềm
thức của chúng ta qua hình ảnh bờ tre, gốc rạ, bếp lửa, ao làng. Đi xa, nhớ
quê, ai mà chẳng khắc khoải nhớ nhung những hình ảnh ấy. Bằng Việt đang du học
tại Liên Xô, nỗi nhớ quê, nhớ nhà của tác giả được khơi gợi từ dòng hồi tưởng
về hình ảnh bếp lửa thân thương, ấm áp :
“Một
bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm”
Điệp ngữ “một
bếp lửa” đặt ở hai dòng thơ đầu bài thơ diễn tả cảm xúc trào dâng trong dòng
hồi tưởng ấy. Đó là hình ảnh bếp lửa gần gũi, quen thuộc trong mỗi gia đình chập
chờn, ẩn hiện, lung linh trong sương sớm. Từ hình ảnh ấy, nhà thơ liên tưởng đến
bàn tay người bà kiên nhẫn, khéo léo nhóm “Bếp
lửa ấp iu nồng đượm” bằng tấm lòng che chở, ôm ấp, nồng ấm, yêu thương. Nhớ
đến bếp lửa ấy, lòng cháu trào dâng cảm xúc: “Cháu thương bà biết mấy nắng mưa”.
Hình ảnh bà lặng lẽ, âm thầm qua bao nắng mưa
làm cho cảm xúc lan toả, thấm sâu vào lòng người, tiếp tục mở ra dòng hồi tưởng,
làm sống dậy những kỉ niệm tuổi thơ gian
khổ, thiếu thốn, nhọc nhằn: bóng đen ghê rợn của nạn đói năm 1945, cả gia đình phải
xiêu tán để:
“Lên
bốn tuổi cháu đã quen mùi khói
Năm
ấy là năm đói mòn đói mỏi
Bố
đi đánh xe khô rạc ngựa gầy
Chỉ
nhớ khói hun nhèm mắt cháu
Nghĩ
lại đến giờ sống mũi còn cay !”
Cái mốc thời gian “lên bốn tuổi” gắn với không gian bếp lửa có “khói hun nhèm mắt cháu” và hoàn cảnh “đói mòn đói mỏi” mới thấy tuổi thơ tác giả xiết bao cơ cực xót
đau. Hai chi tiết “mùi khói” và “khói hun” gợi tả lại ấn tượng đậm nét,
có sức lay động về bếp lửa trong cuộc sống, tâm hồn tuổi thơ, vừa biểu hiện thấm
thía những tình cảm da diết, xót xa, thương mến đến mức: “Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay”. Thời gian đã lùi vào quá khứ
nhưng dường như cái cay vì khói bếp vẫn còn hằn sâu trong tâm khảm trong hồn
người, trở thành cái cay của cảm xúc trào dâng mỗi khi nhớ đến kỉ niệm xưa.
Nhiều kỉ niệm về bà cháu và bếp
lửa sống lại theo từng dòng thơ: “Tám năm
ròng cháu cùng bà nhóm lửa…” đó là
khoảng thời gian không dài của đời người nhưng là những năm tháng tuổi thơ nhọc
nhằn nhưng đáng nhớ của tác giả:
“Mẹ
cùng cha công tác bận không về
Cháu
ở cùng bà , bà bảo cháu nghe
Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học”
Thật xúc động biết bao, bà không chỉ là
người trông cháu mà còn là người bảo ban, dạy dỗ cháu nên người. Bà không chỉ
chăm chút thể xác cháu mà còn nuôi dưỡng tâm hồn để cháu trưởng thành theo năm
tháng.
Câu chuyện tuổi thơ của cháu âm
vang trong tiếng chim tu hú. Quá khứ như một đoạn phim quay chậm với những cận
cảnh thì gợi buồn thương, còn toàn cảnh thì mênh mông xa vắng, nhưng ấm áp tình người. Trong đoạn phim ấy,
tiếng chim tu hú là âm nền chủ đạo với nhiều cung bậc tình cảm khác nhau: Lúc
thì văng vẳng mơ hồ trong không gian đất trời mênh mông gợi bao thương nhớ:“Khi tu hú kêu, bà còn nhớ không bà…”; lúc
thì gần gũi như đồng cảm, thấu hiểu: “Tiếng
tu hú sao mà tha thiết thế”; lúc thì sẻ chia: “Tu hú ơi!... Kêu chi hoài trên
những cánh đồng xa”. Tiếng chim tu hú tạo thành một điệp âm làm cho dòng
hồi tưởng thêm giục giã, như khắc khoải khiến lòng người trỗi dậy những kỉ niệm
nhớ mong. Trong cảnh đơn côi chỉ có hai
bà cháu giữa đói nghèo và chiến tranh, tiếng chim tu hú như một âm thanh đồng vọng
của đất trời thấm vào lòng người .
Theo thời gian cháu lớn dần,
kỉ niệm về tình bà cháu, làng xóm, quê hương lại tiếp tục hiện về trong những dòng thơ chân
thực, xúc động trong gian khổ của khói lửa chiến tranh:
“Năm
giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi
Hàng
xóm bốn bên trở về lầm lụi
Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh”
Hình ảnh người bà hiện lên trong những lời
thơ ấy cũng thật đẹp đẽ. Bà lúc nào cũng yêu thương cháu, bà không chỉ chăm sóc
bảo ban cháu mà còn dặn dò cháu :
“Bố
ở chiến khu bố còn việc bố
Mày
viết thư chớ kể này, kể nọ
Cứ bảo nhà vẫn được bình yên”
Người bà giờ đây không chỉ là
người bà của gia đình mà là người bà của dân tộc, người mẹ hậu phương đang âm
thầm lặng lẽ làm việc để hướng ra tiền tuyến. Bà không trực tiếp cầm súng nhưng
những gì bà làm cho gia đình, cho con cháu đã biểu lộ ý thức trách nhiệm của mình
đối với tổ quốc.
Từ những dòng hồi tưởng, người
cháu đã suy ngẫm về tình bà. Càng lớn lên, tác giả càng thấy rõ tấm lòng cao quí
đẹp đẽ của bà bởi tình bà cháu đã kết tinh và hoà quyện trong tình yêu quê hương,
tổ quốc.
Do đó không phải ngẫu nhiên mà
từ hình ảnh “bếp lửa” nhưng đến khổ
thơ thứ năm nó đã bừng sáng thành “ngọn
lửa”:
“Một
ngọn lửa lòng bà luôn ủ sẵn
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng…”
Ngọn lửa mang ý nghĩa khái quát
và rộng lớn hơn: là tình thương gia đình, là ngọn lửa của niềm tin, mà bà đã ấp
ủ, đã nhóm dậy trong lòng người cháu những tin yêu. Bà là người nhóm lửa, là người
giữ lửa luôn ấm nóng, toả sáng trong gia đình. Không những thế, bà là người
truyền ngọn lửa tinh thần sang cho cháu. Chính vì vậy, nhắc đến bà là nhắc đến bếp lửa
và hiện diện cùng bếp lửa là hình ảnh bà. Bếp lửa ấy không chỉ được nhen bằng vật
liệu bên ngoài mà còn chính là được nhen nhóm lên từ ngọn lửa trong lòng bà -
ngọn lửa của sức sống, lòng yêu thương, niềm tin. Vì thế khi bà nhóm lửa là lúc
bà nhóm tình yêu thương và truyền cho cháu tình ruột thịt nồng ấm.
“Nhóm
bếp lửa ấp iu nồng đượm
Nhóm
niềm yêu thương khoai sắn ngọt bùi
Nhóm
nồi xôi gạo mới sẻ chung vui
Nhóm
dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ”.
Ngôn ngữ, hình ảnh trong đoạn
thơ dào dạt như sóng, lan toả như lửa ấm. Đó cũng chính là dòng cảm xúc dồn nén
bỗng dâng trào. Nhà thơ đã cảm nhận được trong bếp lửa bình dị thân thuộc ấy điều
kì lạ thiêng liêng: “Ôi kì lạ và thiêng
liêng - bếp lửa”.
Đứa cháu năm xưa giờ đã khôn
lớn, đã được chắp cánh bay xa, được làm quen với những chân trời rộng mở: “Có ngọn khói trăm tàu/ Có lửa trăm nhà, niềm
vui trăm ngả”. Không gian và thời gian xa cách, cuộc đời đã có nhiều đổi
thay… nhưng cháu vẫn không nguôi nhớ tha thiết mãnh liệt bếp lửa quê nhà, nhớ tấm lòng chắt chiu đùm bọc của bà. Ngọn lửa ấy
đã thành kỉ niệm ấm lòng, thành niềm tin thiêng liêng, kì diệu nâng bước người
cháu trên suốt chặng đường dài.
Cái bếp lửa bình dị, quen
thuộc của làng quê đã gợi cho ta những suy ngẫm về bếp tình ấm áp của gia đình
và quê hương. Người cháu yêu bà, hiểu bà mà thêm yêu dân tộc mình, đất nước mình.
*****
BẾP LỬA
Bằng Việt
Một bếp lửa
chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa.
Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói
Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi
Bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa.
Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói
Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi
Bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy
Chỉ nhớ khói
hun nhèm mắt cháu
Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay
Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa
Tu hú kêu trên những cánh đồng xa
Khi tu hú kêu bà còn nhớ không bà?
Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế
Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế
Mẹ cùng cha bận công tác không về
Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe
Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học
Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc
Tu hú ơi chẳng đến ở cùng bà
Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa?
Năm giặc đốt làng cháy tàn,cháy rụi
Hàng xóm bốn bên trở về lầm lụi
Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh
Vẫn vững lòng, bà dặn cháu đinh ninh:
“Bố ở chiến khu, bố còn việc bố
Mày có viết thư chớ kể này kể nọ
Cứ bảo nhà vẫn được bình yên”.
Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen
Một bếp lửa lòng bà luôn ủ sẵn
Một bếp lửa chứa niềm tin dai dẳng
Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa
Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ
Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm
Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm
Nhóm niềm yêu thương khoai sắn ngọt bùi
Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ
Ôi kỳ lạ và thiêng liêng - bếp lửa!
Giờ cháu đã đi xa, có ngọn khói trăm tàu
Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả
Nhưng vẫn chẳng bao giờ quên nhắc nhở
Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?
Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay
Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa
Tu hú kêu trên những cánh đồng xa
Khi tu hú kêu bà còn nhớ không bà?
Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế
Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế
Mẹ cùng cha bận công tác không về
Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe
Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học
Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc
Tu hú ơi chẳng đến ở cùng bà
Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa?
Năm giặc đốt làng cháy tàn,cháy rụi
Hàng xóm bốn bên trở về lầm lụi
Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh
Vẫn vững lòng, bà dặn cháu đinh ninh:
“Bố ở chiến khu, bố còn việc bố
Mày có viết thư chớ kể này kể nọ
Cứ bảo nhà vẫn được bình yên”.
Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen
Một bếp lửa lòng bà luôn ủ sẵn
Một bếp lửa chứa niềm tin dai dẳng
Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa
Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ
Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm
Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm
Nhóm niềm yêu thương khoai sắn ngọt bùi
Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ
Ôi kỳ lạ và thiêng liêng - bếp lửa!
Giờ cháu đã đi xa, có ngọn khói trăm tàu
Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả
Nhưng vẫn chẳng bao giờ quên nhắc nhở
Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?
(1963)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét