Huỳnh
Minh Tâm
Thiển nghĩ, không phải tự dưng mà Liên Hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật
toàn quốc đã trao giải thơ năm 2012 cho tập “Lời ru lá cỏ” (Nxb Đà Nẵng, 2012)
cho nhà thơ Nguyễn Hải Triều, cũng như trước đó, tập “Rơm rạ mùa” (Hội Văn học
Nghệ thuật Quảng Nam, 2007) đã đoạt giải khuyến khích Văn học Nghệ thuật Quảng
Nam 10 năm 1997-2007 . Có lẽ Ban Giám khảo nhận ra nhiều cái hay nét đẹp trong
thơ anh, đặc biệt là nét văn hóa đằm thắm, bền vững, độc đáo đã trầm tích thành
“quặng thơ” đáng quí, đáng trân trọng !?
Theo
sát hành trình thơ của Nguyễn Hải triều, tôi nhận ra, thơ anh thật riêng biệt,
hào sảng trong dòng chảy thơ ca bùng vỡ của các cây bút Đất Quảng trong thời
gian gần đây. Không riết róng ngôn từ như thơ Đỗ Thượng Thế. Không mông lung
giọng điệu như thơ Phạm Tấn Dũng. Không “ phân mảnh” rạo rực như thơ Nguyễn
Giúp. Không “ kiêu sa thời thượng” như thơ Nguyễn Tấn Cả. Không góc cạnh đa
ngôn như thơ Mai Thanh Vinh. Thơ anh rỉ rả, giản dị giải bày tâm sự về quê xứ,
có lúc nhỏ nhẹ, từ tốn, có lúc
nhộn nhịp
miên man. Nổi trội một tình yêu bền chặt, đượm nồng như bếp than hồng với gia
đình, làng xóm, bạn bè, dòng sông, bến nước, cây đa, con đò, bãi đồng, phù sa,
ngọn núi. Tất thảy những hình ảnh đẹp đẽ của làng quê ở thì quá khứ hòa quyện trong cái
nhìn trong sáng, đắm đuối , trong cảm xúc thăng hoa rào rạt của thi nhân trong
thì hiện tại tạo ra những dòng thơ trinh nguyên, giọng điệu trữ tình da diết:
tôi
còn rơm rạ mùa quê
thương
sông con nước bộn bề phù sa
ngẩn
ngơ làn nắng tháng ba
tiếng
chim bìm bịp vừa xa vừa gần
về
nghe sóng kể mênh mang
bến trăng quê
một lỡ làng xa xôi
cau vàng vôi
trắng trầu xanh
ngày em búi tóc
mà thành sơn khê
(Rơm rạ mùa)
Những dòng ký ức tiếc thương, những vô thường trường cửu đang bám đuổi
khách giang hồ tha phương cầu thực ở chốn Ta Bà, những hình ảnh biến chuyển từ
thực đến ảo, từ sầu đau số phận đến đau buồn lênh loáng nhân quần đã tạo ra độ
rung nhất định của câu thơ, gây ấn tượng mạnh mẽ cho người đọc.
Như tự giới thiệu trong tập “Lời ru lá cỏ”. Nguyễn Hải Triều sinh năm 1958,
quê Đại Lộc, Quảng Nam .
Nơi làm việc: Phòng Văn hóa và Thông tin Huyện Đại Lộc. Tôi con biết thêm,
những năm đầu thập niên tám mươi của thế kỷ trước anh từng là lính của
sư 2 , tham gia chiến trường “ K” , vào sinh ra tử. Nhiều bạn bè của anh
đã đi xa trong lửa đạn và máu tanh. Dường như chính quãng đời đầy chông gai,
nhưng cũng nhiều dấu ấn và “giai thoại đẹp” về tình nghĩa và bè bạn đã tạo cho
anh một cách nhìn “ đời” chín chắn, thâm trầm, làm thơ anh cảm giác lúc nào
cũng có chất “ lửa”, chất “ lính” yêu đời và “ say đời”:
Mịt mờ khoảng
trời viễn xứ
Rừng xưa đồng
đội đâu rồi
Nhớ mảnh vá
trên vai áo lính
Chiều biên
cương khuất lẩn sương trôi
Thuở trăng
treo góc rừng võng khuyết
Bên nhau nỗi
nhớ khôn cùng
Đêm rôm-vông
cô gái Miên múa hát
Nụ cười bạn
tôi rung theo ánh lửa bập bùng
(Phía ấy bạn tôi nằm)
Đọc thơ Nguyễn Hải Triều, người viết bài này thường có những cảm nhận:
làng là biểu trưng của tính văn hóa ổn
định, nền nếp và gắn bó. Thơ anh có những câu về làng thật gợi, xúc động:
Đường cày
xoắn vòng úp mặt suy tư
Đất bệ tháng
Ba cơm áo
Nứt nẻ mùa
màng ngực cha đón bão
Ruộng quê
nhuốm phèn gió thở phía trăng lên
(Quê Nội)
Hay:
Về đắm cơn
mưa nát nhàu ký ức
Ai đốt rơm
chiều gió phiêu bạt mấy phương
Mang quê
kiểng theo mây trời bụi bặm
Lá thu
bay rụng cuối đường
(Mưa chiều)
Ở trên làng trở thành một bức tranh đẹp, day dứt, tình cảnh hòa điệu,
một nỗi thương tiếc ngẩn ngơ. “tiếng gà
giữa thinh không xao xác/ hỏi em có về/ tôi gởi mùa theo?”. Đọc đoạn này
làm tôi chợt nhớ nhà thơ Nguyễn Nhã Tiên cùng quê kiểng, như tri âm, cùng “nợ”
làng với những cảm xúc thật tròn đầy, viên mãn: “ Mỗi ngày sông mỗi đi xa/ chảy vơi một ít quê nhà của tôi/ mẹ xa, em
cũng xa rồi/ cỏ xanh thôi gắng đắp bồi ngày xưa/ cát im lặng một miền quê//
bỗng dồn dập bước chân về giục vang/ ven sông cải đã hoa vàng/ nắng mê mải chở
mùa sang tìm người” (Bờ bãi riêng tôi, trong tập Khúc hồi âm của lá, Nguyễn Nhã
Tiên, Nxb Hội Nhà văn, 2004).
Sông là biểu trưng của văn hóa
dịch chuyển, tồn lưu, mở ra “một cõi lòng
mênh mông sông nước. Đôi khi lạc bước quê nhà, sông là nhịp cầu về nơi cố quận:
“khúc dạ hành đời sông di trú/ giấc mơ xanh quê ấm một giọng cười” (dấu con
đường). Con sông lặng im dạy người biết im lặng.Cơ hồ những lở bồi là nghiệp dĩ
của đời sông, đời người. An nhiên của sông trước vô thường sóng gió, trùng
trùng dâu bể là một công án hạnh ngộ lấp lánh nụ cười vô ngại” (Cũng may
còn có dòng sông nhớ người- Nguyễn Hữu Vĩnh).
Bữa về chỉ
bến và tôi
Ngẩn ngơ một
cánh buồm trôi giữa dòng
Lưng chừng
nắng với mênh mông
Lặng im sông
chảy mà không nói gì
Hình như lau cũng già đi
Lơ thơ tóc
muối người đi sông buồn
(Bài lục bát gửi sông)
Hương là biểu trưng văn hóa của cái đẹp. Mà dường như cái đẹp thường
mong manh, dễ vỡ. Mối tình đầu và ẩn ức giấc mơ trở thành sự “ nuối tiếc mòn mỏi” của bao tao nhân mặc
khách, đề tài huyền nhiệm của thi ca.
Cung bậc
thăng trầm khúc hát tàn phai
Hoài niệm
quẫy đạp em gọi về mùa sương phiêu lãng
Mùa bồng bềnh
của mây trời tháng tư
Tôi gói hương
vào vĩnh hằng
Lúc ngọn cỏ
đêm xuân giật mình
Làn gió nhẹ
nhàng ve vuốt vết tích bàn chân giẫm vội
Tôi ngóng đợi
khát vọng của cơn sóng xô bờ
Nhưng chỉ còn lại sự nuối tiếc mòn mỏi
Dòng sông kỷ
niệm đã trôi xuôi
(Hương)
Mẹ, em, bè bạn, con cái là biểu trưng văn hóa cái thiện và tình yêu, là
cái còn sót lại sau muôn cái ra đi vào một chốc kia lúc nọ. Giả sử những thể tính xảy ra, thì mẹ, em, bạn
bè, con cái vẫn mãi là những ngôi sao lấp lánh trên bầu trời tĩnh mịch, đen tối
và cô đơn:
Có bàn tay mẹ
run run cầm vào âu lo và khát vọng
Bữa cơm chiều
khuyết mòn nỗi đau
Ngày anh đi
lá sầu đông trước ngõ đã xanh màu
(Thượng Đức)
Em, người đàn
bà duyên dáng
Tôi gặp trong
cuộc đời ngốc nghếch của mình
Nếu em giấu
nụ cười vào đêm dĩ vãng
Nụ cười tôi
sẽ như chiếc lá rơi vào lúc bình minh
( Thơ bốn câu
1)
Những câu thơ gợi cái hồn “ văn hóa ngốc nghếch”, “ văn hóa run rẩy”
đẹp biết chừng nào. Và như tôi cũng đã từng viết về anh : Dường như anh “ ít ý
tứ”, ít “nói vòng vo”, mà bập ngay vào sự kiện, bỗ bã, đã đời: “ Chếnh choáng với đời dôi chén rượu/ ta còn
lưng túi mấy câu thơ/ nơ áo cơm đi cầm bớt tuổi/ nên tóc xanh sớm bạc đến bây
giờ”(Thơ bốn câu 7). Tuy nhiên, đọc nhiều thơ anh, lại thêm, gợi lòng tôi
bao trắc ẩn, xốn xang : “ Lúng liếng mắt
cười trẻ mành khăn đỏ/ nhạc rung hồn lãng phách lưng trời/ ai ủ ngày lên gót
hài chinh chiến/ Ghé quán bên đường “ mùa em thơm nếp xôi” (Qua Mai Châu
nhớ Quang Dũng). Thơ anh đôi lúc hóm và ý vị đáo để!
Viết về thơ Nguyễn Hải Triều mà không “ xưng danh” lục bát, không trích
ra “ kí thác nỗi lòng” (Chữ dùng Nguyễn Hữu Vĩnh viết về anh) của anh nặng nợ
với lục bát thì xem như người viết thấy thiêu thiếu một thứ gì đó, như bài viết
“ đã hỏng”. Anh có những rặng lục bát phong nhiêu, trong trẻo:
Thưa em từ
thuở nguyên khôi
Tôi xưa tôi
lại là tôi bây giờ
Ngày mai
khuất nẻo xa mờ
Sông trôi
phía núi trăng chờ phía mây
Dòng đời vạn
nẻo đục trong
Hãy thương
cho trọn tấm lòng mà thôi
(Gởi một người)
Một ý thức văn hóa về tình yêu, là cái đẹp của khởi đầu và cuối cùng.
Và rồi dường như cũng có một hơi thở phong sương lính chiến trong các câu
lục bát của anh, bởi anh đã từng là lính chiến phong sương và giờ vẫn phong sương
bụi bặm. Bởi phong sương bụi bặm nên tếu táo hóm hỉnh. Rồi cái giọng thơ đặc mùi
quê, tình quê, đặc buồn rầu ly biệt
À
ơi cùng với lời mưa
Ru ta ngọn gió se sưa ngoài vườn
nẻo đời trăm
mối tơ vương
vì nên ảo
mộng vô thường thế thôi
nhả tơ tằm
chịu mồ côi
thương nhành
dâu héo một đời bên sông
ru em thân
phận má hồng
ru ta còn có
bão giông thác nguồn
(Khúc hát ru của người mất ngủ)
Rồi văn hóa của buồn đau, hy vọng, ý thức việc làm mới mẻ thơ ca để thơ
ca cất lên tiếng vọng về đời sống, mở ra cánh cửa của hạnh phúc và “Thiên đàng”:
Trời chia
vạt nắng
cuối sân
em xanh bên
ấy
trắng ngần
phía tôi
buồng cau đỏ
mắt
đợi người
lơ ngơ thốt
tiếng trái rơi
động hồ…
(Quán
chiều)
Hay văn hóa của kỷ niệm và tuổi trẻ, cứu cánh của những bến bờ mang
mang tự chảy, tự nghiền ngẫm, tự đắc, tự ngộ:
Mai
em
màu tóc sẽ
phai
Đã rồi
vương lấy
tình ai một
đời
Thu
trời
nhặt lá vàng
rơi
Nghe
rưng
kỷ niệm
của thời tóc
xanh
(Màu tóc)
Cuộc đời của nhà thơ dường như gắn chặt, lèn chặt với đất đai ttoor
tiên, nên từ ấy cảm thức của anh cũng bật dậy hồn cốt lục bát quê nhà
Đi từ làng
nhỏ bên sông
Ôm hơi đất ủ
khói đồng tha hương
Câu thơ nhặt
giữa phố phường
Mỗi trang
giấy cứ như vương vấn bùn
(Với quê)
Tôi xin nhặt ra đây những hình ảnh và ngôn từ: “ lau cũng già đi”, “lở bồi với sông”, “Vu Gia sông mẹ mãi xanh dòng”,
“tìm gió đầu truông”, “ mùa sim đang trổ nụ”, “tìm về gọi em chim sẻ chim sâu”,
“tròng trành gánh nhớ quảy về phù sa”…, và tất cả những gì đã trình bày, có
thể khẳng định thi nhân là một hồn cách quê kiểng đậm đà, u uẩn, một giọng thơ
chao chát nắng và gió. Nhịp thơ không gấp gáy, thời thượng, mà tròn trịa, đêù
đặn, dễ đọc, dễ yêu. Ở đây, người viết bài này, chợt nhận ra, có một ý thức văn
hóa hẳn hoi, rành mạch để gìn giữ chất thơ truyền thống, các hình ảnh, các di
chỉ văn hóa quê xứ cần khơi ngòi, với chất thơ giản dị, mộc mạc, ám gợi những
câu ca dao đằm thắm, sâu sắc.
Và
thiển nghĩ, văn học là văn học của con người và đất đai. Dễ dàng nhận thấy nhà
thơ nguyễn Hải Triều không bị nô dịch, lai căng một thứ văn hóa nước ngoài nào.
Dòng máu cha sinh mẹ đẻ, văn học dân gian, “ lời ru lá cỏ” quê nhà mãi chảy,
thông lưu trong huyết quản của nhà thơ, rạo rực và ấm nóng. Chính nó là “ cha
đẻ” cho cảm hứng sáng tạo của anh tung hoành, bùng vỡ, nhất thể, và những gặt
hái, những thành công của anh là minh chứng cho một hướng nhìn, hướng đi đúng
đắn, bền bỉ, bản sắc của một cái đẹp sẽ lan tỏa trong thời đại thơ ca đang
nhiều “ méo mó”.
* Huỳnh
Minh Tâm
GV
Trường THPT Huỳnh Ngọc Huệ, Đại Lộc, Q. Nam
Hội
VHNT – Q. Nam
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét