nguồn: tienve
Những lý do đầu tiên và
quan trọng nhất cho những cái không thích như thế thường không quá khó hiểu: Vì
thiếu đam mê, thiếu thói quen và đặc biệt, thiếu kiến thức. Tôi thừa nhận tôi
thiếu cả ba thứ ấy, đặc biệt là về kiến thức.
Tôi chơi thân với Hoàng
Ngọc-Tuấn, một nhạc sĩ nổi tiếng uyên bác và tài hoa; tôi nghe anh nói chuyện
về âm nhạc dễ đến cả hàng ngàn lần, nhưng tất cả những gì anh nói, cứ lọt vào
tai này thì chạy ngay ra ngoài lỗ tai khác. Chúng không hề làm giàu có hơn cái
vốn kiến thức vốn vô cùng ọp ẹp của tôi. Thành ra, nghe nhạc, tôi vẫn không
biết bất cứ thứ gì liên quan đến giai điệu hay tiết tấu, hay nói chung, đến kỹ
thuật, một yếu tố đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong cái loại hình nghệ thuật
này.
Nhưng những lý do trên
dường như vẫn chưa đủ. Nghe nhạc hòa tấu, tôi vẫn thích. Nghe nhạc cổ điển, tôi
vẫn thích. Hơn nữa, càng lúc càng thích. Tôi chỉ không thích nghe các ca khúc.
Hơn nữa, càng lúc càng không thích.
Lý do chính, tôi nghĩ,
nằm ở chỗ này: Nghe ca khúc, vì dốt về nhạc học, tôi không chú ý nhiều đến khía
cạnh âm nhạc, tôi chỉ tập trung nghe lời. Mà lời trong các ca khúc thì theo
tôi, thường... dở.
Nhiều người, khi viết về
các nhạc sĩ mà họ yêu thích, thường khen nhạc sĩ ấy không những chỉ là nhạc sĩ
mà còn là một thi sĩ: Lời trong các ca khúc của họ hay như thơ. Hoàng Ngọc Hiến
còn có ý định “tiến cử” ca từ bài “Đêm thấy ta là thác đổ” của TrịnhCông Sơn là một trong những “bài thơ tình hay nhất của thế kỷ”. Thú
thực, đọc những lời khen ngợi như thế, tôi chỉ thấy sự dễ dãi đến độ buồn cười.
Theo tôi, nếu chỉ nhìn từ góc độ thơ, rất hiếm có ca từ nào trong các bản nhạc
bằng tiếng Việt có thể được xem là trên trung bình. Xin lưu ý: tôi chỉ nói từ
góc độ thơ. Tôi không bàn về nhạc.
Nhìn từ góc độ thơ, tức
chỉ nhìn từ góc độ ngôn ngữ sau khi tước bỏ đi các giai điệu, phần lớn các ca
từ Việt Nam
đều bị hai khuyết điểm trầm trọng: sáo và cũ. Có rất nhiều cách diễn tả ngỡ đã
chết hẳn trong thơ vẫn còn ê hề trong các ca khúc: “lấp lánh trăng vàng”, “lá
vàng tàn phai”, “tình duyên bẽ bàng”, “khuya về gác trọ”, “tình người lữ thứ”,
“dòng suối lững lờ”, “kiếp người nhỏ bé”, “mây giang hồ”, “suối lệ”, “gót chân
son”, “quê hương dấu yêu”, “con tim buốt giá”, “tim rạn vỡ”, “lòng vấn vương”,
“mối sầu vạn cổ”, “mái tóc thề”, v.v. Nghe những lời như thế, thú thật, tôi chỉ
muốn phát bệnh.
Người ta hay nói về mối
quan hệ giữa thơ và âm nhạc. Đành là có. Trong thơ, một trong những yếu tố quan
trọng nhất là nhạc tính. Tuy nhiên, xu hướng phát triển chung của thơ là, một
mặt, vẫn giữ nhạc tính, nhưng mặt khác, lại cố gắng tách xa khỏi thứ nhạc tính
trong âm nhạc, đặc biệt trong nhạc bình dân, vốn chỉ gồm một số khuôn
luyến láy rất đơn giản và đơn điệu. Trong nỗ lực đổi mới của những nhà thơ giàu
óc sáng tạo, thơ tìm kiếm một thứ nhạc điệu khác, thứ nhạc điệu hầu như người
ta không thể hát được (thậm chí không thể ngâm được). Không phải ngẫu nhiên mà
trong số những bài thơ được phổ nhạc, rất hiếm bài thơ nào thật hay. Có. Nhưng
hiếm. Thơ hay đương đại lại càng hiếm. Cực hiếm. Những bài thơ hay và mới lại
càng hiếm. Phần lớn những bài thơ được phổ nhạc, thậm chí, khi thành nhạc, được
xem là những bản nhạc hay, thường chỉ là những bài thơ trung bình. Vì vậy,
người ta hay nói Phạm Duy có công trong việc làm cho một số nhà thơ bỗng trở
thành nổi tiếng. Điều đó có nghĩa là, tự bản thân họ, những nhà thơ kia chưa đủ
tầm vóc để được khẳng định như một nhà thơ có bản sắc, từ đó, có thể thành tên
tuổi riêng. Mà thật, thơ của những người như Nguyễn Tất Nhiên, hay ngay cả Phạm
Thiên Thư, thành thật mà nói, tôi nghĩ chỉ ở mức trung bình. Hay trên trung
bình một tí. Thơ họ không kém. Nhưng chúng lại thiếu một thứ mà thơ cần có:
sáng tạo. Tiếc, đó lại là điều quan trọng nhất. Đối với thơ.
Trong khi thơ cố gắng
tách ra khỏi nhạc thì nhạc, ít nhất là nhạc bình dân, ngược lại, vẫn còn cố bám
vào thơ. Lại là thơ cũ. Thành ra, trong nhạc Việt Nam hiện nay vẫn đầy những cách
diễn tả sáo mòn. Tôi nghĩ điều đó có hại cho cả hai. Một mặt, về phía âm nhạc,
nó làm cho nhạc cứ ở mức bình dân mãi; mặt khác, về phía thơ, nó lại bảo lưu và
truyền nhiễm cái bệnh sáo, điều mà thơ phải xem như một chứng bệnh chết người.
Xin nhắc lại: ở đây, tôi
chỉ bàn đến các ca khúc từ góc độ lời. Tôi không bàn về âm nhạc.
-----------------------------------------------
Đọc bài liên quan :
Một bài thơ hay của Trịnh Công Sơn
Vấn đề nâng cấp và cách tân ca từ
Nhìn lại nền âm nhạc VN thế kỉ XX
-----------------------------------------------
Đọc bài liên quan :
Một bài thơ hay của Trịnh Công Sơn
Vấn đề nâng cấp và cách tân ca từ
Nhìn lại nền âm nhạc VN thế kỉ XX
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét