16/5/14

460. LỊCH SỬ TỔ TIÊN ĐÃ 13 LẦN ĐẠI THẮNG GIẶC PHƯƠNG BẮC

       Nguyễn Thanh Đức

Lần thứ 1 : Năm 1218 TCN, Phù Đổng Thiên Vương đại thắng giặc ÂN


Theo sách vở Trung Hoa, năm 1218 TCN, Ân Cao Tôn đã đánh Quỷ Phương, vùng Đồng Đình. Ân Cao Tôn đóng quân tại đất Kinh, phía tả ngạn sông Dương Tử. Sau 3 năm, Ân Cao Tôn ‘không thắng’. [Nhà Ân còn được gọi là Nhà Hậu Thương].
          Theo Truyền kỳ Phù Đổng của Việt Lạc, Ân Cao Tôn đã xâm lấn nước ta ba năm và đã bị đánh bại. Cách đây 3200 năm, dân Việt Lạc đã là một quốc gia vững mạnh, đã có tổ chức chặt chẽ, có vua quan, có làng xã, có cúng tế, có lúa gạo, có vải áo, có lũy tre... đã đúc được ngựa sắt, roi sắt, đã có tinh thần dân tộc cao độ... và, theo sách vở Trung Hoa, đã chiến thắng giặc Ân vào thời kỳ hùng mạnh nhất của chúng.


Lần thứ 2 : Năm 214 TCN, đại thắng giặc Tần


Năm 214 ttl, Tần Thủy Hoàng, vị vua đầu tiên của Trung Hoa, sai tướng Đồ Thư kéo 50 vạn quân xâm lăng vùng đất Việt Lạc. Nay thuộc tỉnh Hồ Nam, Quảng Tây, Quảng Đông. Đây là đoàn quân tinh nhuệ vừa giúp Tần Thủy Hoàng đánh chiếm sáu nước và thành lập nước Trung Hoa.
Nhưng mấy năm sau, Đồ Thư đã bị quân Việt đánh bại, quân giặc chết quá nửa, Đồ Thư bị giết. [Việt Nam Sử Lược, do Trần Trọng Kim, nxb Trung Tâm Học Liệu, Sàigòn 1971, q1, tr 18].

Lần thứ 3 : Năm 181 TCN, đại thắng giặc Tây Hán



Năm 181 TCN, triều Hán sai Long Lân hầu Chu Táo kéo quân sang xâm phạm Lĩnh Nam, đánh Nam Việt. Theo sách vở Trung Hoa, quân Hán không chịu được thủy thổ phương Nam, nhiều người phải bịnh tật, bởi vậy phải thua chạy về bắc. Sau đó, triều Hán xét việc Nam chinh không lợi, nên không đánh nữa (!). [Việt Nam Sử Lược, q1, tr 30; Việt Sử Toàn Thư, Phạm văn Sơn, nxb Thư Lâm, Sgn 1960, tr 89].

Lần thứ 4 : Năm 40, Hai Bà Trưng đại thắng giặc Đông Hán


Năm 30, Hán Quang Vũ áp đặt chế độ trực trị trên vùng đất Việt Lạc. Do đó, toàn dân Việt vùng lên kháng chiến, và bầu Trưng Trắc là thủ lãnh. Sau 10 năm khởi nghĩa, dân ta đã đánh đuổi toàn bộ quân Tàu ra khỏi vùng đất Việt Lạc, chiếm lại 65 thành.  Thời đó, vùng đất Việt Lạc nay là Hồ Nam, Quý Châu, Vân Nam, Quảng Tây, Quảng Đông, Hải Nam, và một phần Tứ Xuyên, Hồ Bắc, Giang Tây, Phúc Kiến của Trung Hoa, xuống tới Hải Vân... [Việt Nam Sử Lược, q1, tr 39-40].

Lần thứ 5 : Năm 541, Lý Nam Đế đại thắng quân nhà Lương



Năm 541 Đức Lý Nam Đế đánh đuổi quân xâm lược nhà Lương, giành độc lập. Xưng là Nam Việt Đế, niên hiệu Thiên Đức, đặt quốc hiệu là Vạn Xuân. Lập ra Nhà Lý (tiền Lý). Đây là lần đầu tiên sách sử Trung Hoa ghi lại quốc hiệu và niên hiệu của dân ta. Nhà Tiền Lý kéo dài 61 năm, từ 541 tới 602 dl. [Việt Nam Sử Lược, q1, tr 53-56].

Lần thứ 6 : Năm 938 Ngô Quyền đánh thắng quân Nam Hán


Từ năm 906 , Khúc Thừa Dụ đã giành quyền tự trị khỏi tay người Trung Hoa. Truyền được 3 đời. Nhưng đến năm 938, vua Trung Hoa Nam Hán sai thái tử là Hoằng Tháo kéo quân xâm lấn. Với trận cọc gỗ bọc sắt trên sông Bạch Đằng, Đức Ngô Quyền đã đại thắng quân Hán, giết chết thái tử Hoằng Tháo. Hoàng đế Nam Hán là Lưu Cung cũng kéo quân tiếp ứng theo đường bộ. Nghe tin phải rút về. [Việt Nam Sử Lược, q1, tr 66-68]. 

Lần thứ 7 : Năm 981 Lê Đại Hành đại thắng giặc Tống lần thứ I



Năm 981 dl, vua Tống sai tướng Hầu Nhân Bảo kéo quân xâm lấn, theo hai đường bộ và thủy. Vì vua nước ta là Đinh Tuệ mới 8 tuổi, nên quân sĩ tôn tướng Lê Hoàn lên ngôi (Lê Đại Hành). Với một trận Chi Lăng, quân ta phá tan đoàn quân Tàu, giết Hầu Nhân Bảo. Đoàn quân giặc theo đường biển vội vàng rút lui. [Việt Nam Sử Lược, q1, tr 89-90].

Lần thứ 8 : Năm 1076 Lý Thường Kiệt đánh thắng giặc Tống lần thứ II



Năm 1072 , vua Lý Nhân Tông lên ngôi. Vì vua mới 7 tuổi, nên việc quân đều ở trong tay danh tướng Lý Thường Kiệt. Năm 1075, Lý Thường Kiệt và Tôn Đản kéo 10 vạn quân tái chiếm vùng châu Khâm, châu Liêm và châu Ung, [vốn thuộc vùng đất Việt Lạc], nay thuộc Quảng Đông, Quảng Tây.
Năm 1076, vua Tống sai Quách Quì và Triệu Tiết kéo hơn 30 vạn quân sang xâm lấn Nước ta. Nhưng chúng bị đánh tan ở sông Như Nguyệt. Giặc Tàu kéo sang  hơn 30 vạn, chỉ còn hơn 2 vạn trở về ! [Vân Đài Loại Ngữ, Lê Quý Đôn, (viết năm 1773), nxb Tự Lực, Sg 1974, tr 174-175].

Lần thứ 9: Năm 1258 nhà Trần đánh thắng giặc Nguyên Mông lần thứ I



Năm 1254, quân Mông Cổ đánh chiếm nước Đại Lý, ở vùng Vân Nam. Mông Cổ đương thời là đế quốc to lớn và hùng mạnh nhất thế giới, chìếm đóng từ Á sang Âu.
Năm 1257, từ Vân Nam, tướng Ngột Lương Hợp Thai (Uriyangqatai) đem 3 vạn quân Mông Cổ và hơn 1 vạn quân Đại Lý tấn công Đại Việt, chiếm Thăng Long, đốt phá và giết mọi người trong thành. [Ngột Lương Hợp Thai là công thần thứ 3 của Nhà Nguyên, từng tham gia các trận đánh chiếm nước Kim, nước Đức, Ba Lan, Bagdad, và diệt nước Đại Lý].
Vua Trần Thái Tôn lo sợ, hỏi ý kiến Trần Thủ Độ. Trần Thủ Độ khẳng khái : “Đầu tôi chưa rơi xuống đất, xin Bệ Hạ đừng lo !”. Chỉ mấy ngày sau, vua Trần Thái Tôn dẫn quân phản công, đánh thắng quân Mông Cổ trong trận Đông Bộ Đầu. Trên đường rút lui, quân Mông Cổ còn bị quân ta chận đánh tan tành ở vùng Qui Hóa. [Việt Nam Sử Lược, q1, tr 126-128].
Lần thứ 10 : Năm 1284, Nhà Trần đánh thắng giặc Nguyên Mông lần thứ II


Năm 1271 Hốt Tất Liệt (Khubilai) trở thành Đại Hãn của đế quốc Mông Cổ, đổi quốc hiệu thành Nguyên. Năm 1279, quân Nguyên chiếm trọn đất Trung Hoa. Đế quốc Mông Cổ bao trùm 40 quốc gia từ Á sang Âu.
Năm 1284, Hốt Tất Liệt sai con là Thoát Hoan (Toghan), cùng với các danh tướng Toa Đô (Suodu), Ô Mã Nhi, kéo 50 vạn quân xâm lăng Đại Việt. Quân Nguyên còn có thủy binh từ Chiêm Thành đánh lên. Khi đó, toàn thể quân Đại Việt chỉ có 20 vạn.
Trước tình hình nguy biến, nhiều người muốn hàng hoặc tìm kế hoãn binh. Nhưng các tướng Trần Quốc Tuấn và Trần Khánh Dư cương quyết xin đem quân trấn giữ. Vua Trần Nhân Tôn liền triệu tập các bô lão trong dân tại điện Diên Hồng để hỏi ý kiến. Toàn thể đồng thanh xin Đánh !
Trước thế giặc quá mạnh, quân ta phải rút về Vạn Kiếp. Ở phía Nam, quân Nguyên từ Chiêm Thành cũng đã chiếm Nghệ An. Vua Nhân Tôn lại lo sợ, ‘muốn hàng để cứu muôn dân’.  Nhưng Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn đáp : “Bệ Hạ nói câu ấy thật là lời nhân đức. Nhưng Quê hương Dân tộc thì sao ? Nếu Bệ Hạ muốn hàng, xin chém đầu tôi trước đã !” . Thoát Hoan dùng đại bác bắn phá, và vào được Thăng Long. Triều đình ta chạy về Thanh Hóa. Khi đó tướng Trần Bình Trọng bị bắt. Thoát Hoan dụ hàng và hỏi : “Có muốn làm Vương không ?” Trần Bình Trọng quát to : “Ta thà làm quỷ Nước Nam, còn hơn làm vương đất Bắc !”
Tháng 5 năm 1285, tướng Trần Nhật Duật phá được quân Toa Đô ở cửa Hàm Tử. Sau đó, tướng Trần Quang Khải đưa quân đi thuyền từ Thanh Hóa ra đánh tan quân Nguyên ở bến Chương Dương, rồi dùng phục binh chiếm lại Thăng Long. Đức Hưng Đạo Vương thì đem quân đánh ở Tây Kết, và giết được Toa Đô. Quân ta bắt được 3 vạn quân Nguyên và vô số chiến thuyền, khí giới. Hưng Đạo Vương lại sai phục kích chận mọi đường quân Nguyên có thể rút lui, và tự mình dẫn đại quân lên Bắc Giang đánh Thoát Hoan. Quân Nguyên thua chạy, tới bến Vạn Kiếp bị phục kích, chết quá nửa. Thoát Hoan trốn thoát về Tàu. [Việt Nam Sử Lược, q1, tr 137-150; Việt Sử Toàn Thư, tr 246-248].

Lần thứ 11 : Năm 1287, nhà Trần đánh thắng quân Nguyên Mông lần thứ III


Cuối tháng 12 năm 1287, Thoát Hoan lại theo hai đường thủy bộ, kéo thêm 50 vạn quân xâm lấn, với hơn 800 chiến thuyền, cùng với đoàn tàu 100 chiếc chở lương thực. Phía Đại Việt có khoảng từ 20 tới 30 vạn quân. Quân Nguyên chiếm được Thăng Long, nhưng sợ bị cắt đường liên lạc, nên tập trung ở Vạn Kiếp.Bộ chỉ huy của Đại Việt rút về vùng Đồ Sơn, Hải Phòng. Tướng Trần Khánh Dư đưa quân phục ở bến Vân Đồn và phá tan đoàn thuyền lương.
Tháng 3 năm 1288, cạn lương, Thoát Hoan sai Ô mã Nhi mở đường theo sông Bạch Đằng. Hưng Đạo Vương lại dùng kế đóng cọc bịt sắt xuống sông Bạch Đằng (như Đức Ngô Quyền năm 938 dl). Với trận Bạch Đằng, quân ta tiêu diệt hoàn toàn thủy quân của giặc Nguyên. Nghe tin thủy quân tan vỡ, Thoát Hoan kéo chạy về qua vùng Bắc Giang và Lạng Sơn, và cũng bị quân Đại Việt chận đánh tan tành. [Việt Nam Sử Lược, q1, tr 151-161].

Lần thứ 12 : Năm 1428, Lê Lợi đánh thắng giặc Minh


Năm 1406, giặc Minh kéo quân xâm lấn nước ta. Nhà Hồ thua. Giặc Minh bắt đầu chính sách đồng hóa dân ta với dân Tàu...
Năm 1418, nông dân Lê Lợi khởi nghĩa ở Lam Sơn, Thanh Hóa, tự xưng là Bình Định Vương, gởi hịch kể tội giặc Minh và nêu rõ mục đích đánh đuổi quân giặc cướp nước. Năm 1426, sau 8 năm gian khổ, với nhiều lần nguy cấp, Bình Định Vương thắng trận Tụy Động, và bao vây thành Đông Quan, Thăng Long. Cuối năm 1427, giặc Minh lại đưa thêm 2 đạo quân sang đánh Đại Việt. Đạo quân do Liễu Thăng cầm đầu với hơn 10 vạn lính, 2 vạn ngựa. Đạo quân do Mộc Thạnh dẫn 5 vạn lính và 1 vạn ngựa. Nhưng tại Chi Lăng, quân ta giết Liễu Thăng, phá tan toàn bộ quân tiếp viện của giặc, bắt sống hơn 3 vạn quân Tàu. Mộc Thạnh nghe tin, bỏ chạy. Quân Nam theo đánh, giết hơn 1 vạn giặc Minh. Nghe tin, Vương Thông đang chiếm đóng Đông Quan [Thăng Long], viết thư cầu hòa, và xin cho chúng rút quân về Tàu. Số tù binh, hàng binh và vợ con được thả về Tàu lên hơn 10 vạn người. [Việt Nam Sử Lược, q1, tr 217-234].

Lần thứ 13 : Năm 1789, Quang Trung đại thắng quân Thanh


Năm 1788, Tôn Sĩ  Nghị kéo 20 vạn quân Nhà Thanh, chia làm 3 đạo, tiến đánh Đại Việt, chiếm đóng Thăng Long. Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ đang ở Huế, được tin, tính chuyện tiến đánh. Ngài lên ngôi Hoàng đế, lấy hiệu là Quang Trung. Đức Quang Trung kéo quân ra tới Nghệ An, nghỉ 10 ngày để mộ thêm lính. Tất cả được 10 vạn quân và 100 con voi. Quang Trung cho ăn Tết sớm, đêm 30 sẽ kéo quân đi, và hẹn ngày mùng 7 Tết sẽ ăn Tết lại tại Thăng Long.
Trận đánh thần tốc đã phá hết các đồn giặc, đến nỗi chúng không kịp báo tin cho nhau. Chỉ trong mấy ngày, quân ta đánh chiếm từ Giản Thuỷ, tới Phú Xuyên, Hà Hồi, Ngọc Hồi... Sáng mùng 5 Tết, quân ta vào Thăng Long, Tôn Sĩ Nghị không kịp mặc giáp, lên ngựa tháo chạy. Giặc Tàu chạy theo, chết đuối chật sông Hồng. Các đạo quân giặc ở phía Bắc cũng tất tả rút chạy. Tất cả đều chỉ trong 5 ngày. [Việt Nam Sử Lược, q2, tr 130-134].

Nhận định:
1. Những lần Trung Hoa xua đại quân xâm lấn nước Nam,  dầu dân số, tài nguyên, quân sĩ, phương tiện chiến đấu... dân ta không bao giờ tương xứng với quân Trung Hoa xâm lược. Nhưng bất cứ lần nào, Đại Việt cũng đại thắng ! 
2. Điểm đáng chú ý là trong 900 năm vừa qua, trong khi Việt Nam đánh bại mọi cuộc xâm lăng của Trung Hoa, thì chính Trung Hoa lại bị Kim, Mông, Mãn, Âu, chiếm đóng và thống trị. Đáng chú ý hơn nữa, tuy tình hình thay đổi tùy thời, nhưng trong tất cả những lần xâm chiếm Trung Hoa đó, từ Kim, đến Mông, Mãn... lần nào thực lực xâm lấn, kể cả dân số, lãnh thổ, sản lượng, kỹ thuật, chiến cụ, quân đội... cũng đều không bằng một phần mười của Trung Hoa đương thời. Nhưng Trung Hoa đã luôn là kẻ chiến bại. Ngoài ra, những nhóm người man di và ít oi đó, lại thống trị Trung Hoa vĩ đại tổng cộng hơn 500 năm. Kim 108 năm (1126-1234 dl), Mông 134 năm (1234-1368 dl), Mãn 267 năm (1644-1911 dl), trong đó có 72 năm chung với Âu (1839-1911 dl). Trung Hoa luôn là tên khổng lồ chiến bại
3. Trong tất cả mọi cuộc chiến chống Phương Bắc, Tổ Tiên chúng ta đã chỉ tự sức chiến đấu đơn độc một mình. Các Ngài đã không có bất cứ một yểm trợ nào do bất cứ từ đâu tới. Nhưng bất cứ lần nào, Việt Nam cũng đại thắng Trung Hoa ! Tất cả 13 lần, đều đại thắng. Hiện nay, chúng ta lại đang được yểm trợ từ khắp nơi. Trước hiểm họa Trung Hoa bành trướng, xâm lăng, trộm cướp, gian manh, phá hoại kinh tế ... mọi người, mọi dân nước trên toàn thế giới, đều sẵn sang ủng hộ chúng ta , hơn nữa toàn thể dân Việt hiện nay đều có tinh thần dân tộc và đoàn kết, mọi người đều sẵn sàng…
Cũng phải kể thêm mấy triệu người Việt trên thế giới cũng đang sẵn sàng đóng góp nhân lực, tài lực, vật lực, và nhất là trí lực, chuyên môn, kiến thức, kỹ thuật, kinh nghiệm, và ảnh hưởng... ở mọi lãnh vực ngoại giao, chính trị, kinh tế, tài chính, quân sự,  xã hội...  Chúng ta có nhiều ưu thế hơn Tổ Tiên chúng ta gấp bội. Chúng ta cũng sẽ đại thắng quân xâm lược.

2 nhận xét:

Nặc danh nói...

Thời buổi bây giờ giặc phương bắc không đánh mà đã thắng rồi...

Thế mới lạ.

Chu Công Phùng nói...

Trong lịch sử gần 3000 năm của dân tộc Việt Nam, các triều đại Trung Quốc từ phong kiến đến những năm 80 của thế kỷ 20 đã đem quân xâm lược Việt Nam 20 lần. Cụ thể: nhà Ân 1 lần, nhà Tần 1 lần, nhà Hán 4 lần, nhà Lương 3 lần, nhà Tống 2 lần, nhà Nguyên 3 lần, nhà Minh 1 lần, nhà Thanh 1 lần, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa 4 lần, tức với tần suất trung bình 150 năm một lần xâm lược. Chắc chắn trên thế giới chưa từng có một quốc gia nào đem quân đi xâm lược nước láng giềng của mình nhiều lần đến như vậy.


Trong tổng số 20 cuộc xâm lược đó, chỉ riêng từ khi nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa ra đời năm 1949 đến nay, trong thời gian 65 năm qua họ đã thực hiện 4 lần việc xâm lấn nước ta.

Lần thứ nhất, năm 1956, sau hiệp định Genève, chớp thời cơ người Pháp phải rút khỏi Việt Nam, bàn giao quần đảo Hoàng Sa cho chính quyền miền Nam Việt Nam, hải quân Trung Quốc đã xâm chiếm toàn bộ phần phía Đông của quần đảo Hoàng Sa.

Lần thứ hai, tháng 1/1974, tận dụng thời cơ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đang tập trung lực lượng giải phóng miền Nam, Trung Quốc đã huy động hải quân và không quân đánh chiếm phần phía Tây quần đảo Hoàng Sa lúc đó do quân đội Việt Nam Cộng Hòa đóng giữ.

Lần thứ ba là vào tháng 2 năm 1979, Trung Quốc huy động 60 vạn quân gây ra cuộc chiến tranh xâm lược 6 tỉnh biên giới phía Bắc Việt Nam.

Lần thứ tư, tháng 4/ 1988, Trung Quốc đã huy động hải quân đánh chiếm đảo Gạc Ma và các đảo khác của Việt Nam ở quần đảo Trường Sa.

Như vậy, trong hơn nửa thế kỷ kể từ khi nước CHND Trung Hoa ra đời năm 1949 đến nay, cứ trung bình 15 năm một lần Trung Quốc lại thực hiện một cuộc xâm lược Việt Nam, tần suất dày gấp 10 lần so với tần suất xâm lược Việt Nam từ các triều đại phong kiến Trung Quốc.

Điều thêm giàn khoan vào Biển Đông, Trung Quốc đang mưu tính điều gì?
Điều thêm giàn khoan vào Biển Đông, Trung Quốc đang mưu tính điều gì?
Các sự kiện kể trên từ 1956 đến nay đã chứng minh rất rõ ràng chính sách của Trung Quốc luôn sử dụng cơ bắp để lấn chiếm lãnh thổ và khuất phục Việt Nam. Tuy nhiên, sự việc lần này, bản chất và bộ mặt thật của Trung Quốc đã hiện rõ.

Trước đây, mỗi lần nước này gây ra các vụ việc xâm lấn chủ quyền lãnh thổ Việt Nam trên bộ và trên biển, thậm chí vô nhân đạo bắn chết các ngư dân Việt Nam và bị Việt Nam kháng nghị, phản đối, phía Trung Quốc luôn giở chiêu bài “đồng chí anh em”, “vì đại cục”, “không công khai hóa vấn đề”, “đàm phán song phương hiệp thương giải quyết”… để xoa dịu phản ứng của Việt Nam và lấp liếm tội lỗi của họ. Nhưng lần này, Trung Quốc không nhắc lại các luận điệu cũ nữa, họ đã tự đánh rơi chiếc mặt nạ mà họ dày công tô vẽ suốt hơn hai chục năm qua.

Như vậy, rõ ràng sau hàng loạt các hành động gây hấn, khiêu khích ở Biển Đông, quan hệ Việt Nam và Trung Quốc dù muốn hay không đã tất yếu “bước sang một trang mới”, thưa ông?


Tôi cho rằng sau sự kiện 2/5/2014 lần này, quan hệ giữa Việt Nam với Trung Quốc đã chuyển sang một giai đoạn mới khác hẳn 23 năm trước kể từ khi hai nước bình thường hóa quan hệ. Vì sao vậy? Vì Trung Quốc đã đơn phương vứt bỏ “16 chữ”, “4 tốt”, “4 tương”, đã lộ nguyên hình là nước lớn láng giềng “rộng vai” nhưng “hẹp bụng”, hung hăng xâm lấn chủ quyền lãnh thổ của nước láng giềng “đồng chí anh em”.
( Chu Công Phùng – nguyên Bí thư Đại sứ quán Việt Nam tại Trung Quốc (1987-1991), nguyên đại sứ Việt Nam tại Myanmar )