Tạp bút của
Huỳnh Minh Tâm
Đường thi là di sản vô giá, báu vật
không chỉ riêng của nhân dân Trung Hoa, mà còn chung của nhân loại. Với sự chắc
lọc ngôn từ, chỉn chu vần điệu, hàm súc cấu tứ, rộng lớn đề tài, kín đáo tư
tưởng, Đường thi đã làm say mê hàng triệu triệu con tim độc giả của nhiều thế
kỷ, và vẫn còn sức lan tỏa lâu bền. Cảm hứng sáng tạo của Đường thi vô cùng
phong phú, đa dạng. Quyện chặt tình yêu của con người với con người, con người
với thiên nhiên, con người với lý tưởng, con người với đạo… dường không thể
tách biệt được.
Thường một bài thơ Đường ngắn gọn, viên mãn như một ánh chớp,
để lại dư âm tiếng sét độc sáng trong lòng độc giả. Đường thi thấm đẫm mùa xuân
trời đất và tâm hồn của con người:
Vu Sơn liên Sở mộng,
Hành vũ hành vân kỷ tương tống.
Dao hiên kim ốc thượng xuân thì,
Ngọc đồng tiên nữ vô kiến kỳ.
Tử lộ hương yên diểu nan thác,
Thanh phong minh nguyệt dao tương tư.
Dao tương tư, thảo đồ lục,
Hành vũ hành vân kỷ tương tống.
Dao hiên kim ốc thượng xuân thì,
Ngọc đồng tiên nữ vô kiến kỳ.
Tử lộ hương yên diểu nan thác,
Thanh phong minh nguyệt dao tương tư.
Dao tương tư, thảo đồ lục,
(Vu
Sơn nối liền mộng Sở/ Tiếp tiếp mây mưa chia tay mấy độ/ Hiên ngọc nhà vàng
xuân đến rộ/ Tiên nữ ngọc đồng không kỳ hẹn ước/ Sương thơm khói biếc khó mong/
Gió trong trăng bạc mơ mòng nhớ nhau/ Mơ mòng nhớ nhau, đường xanh cỏ biếc một
màu).
Đó là bài thơ “Giang Nam lộng” của Nhà thơ Vương Bột (647–675), tự Tử An, người
Giáng Châu, Long Môn. Đứng trước mùa xuân sương thơm, cỏ biếc, gió trong, trăng
bạc thi nhân sầu nỗi sầu thương nhớ gái đẹp, đã gặp gỡ sao mà chia tay không
hẹn ước răng long đầu bạc hử ? Trong thơ có họa, có tâm trạng, có triết lý nhân
sinh đường đời dâu bể.
Nhà
thơ Dương Quýnh (650-692) sống vào khoảng đời vua Đường Cao Tông, người huyện
Hoa Âm. Ông có bài thơ Ngũ ngôn tứ tuyệt kiệm lời, mà gửi gắm tình bạn lai
láng. Ngày chia tay người và cảnh, người và trăng chan hòa miên man bởi bạn ông
đã là ngọc, là trăng, mang nhiều lý tưởng và cái đẹp:
Triệu thị liên thành bích
Do lai thiên hạ truyền
Tống quân hoàn cựu phủ
Minh nguyệt mãn tiền xuyên.
Do lai thiên hạ truyền
Tống quân hoàn cựu phủ
Minh nguyệt mãn tiền xuyên.
(Triệu có ngọc liên
thành/ Thiên hạ đã nghe danh/ Tiễn ông về phủ cũ/ Sáng ngập đầy sông trăng.) (Đêm tiễn Triệu Túng).
Nhà
thơ Lạc Tân Vương (khoảng 640-684) sinh
vào khoảng cuối đời Trinh Quán, Đường Thái Tông. Nổi tiếng về ca hành. Thơ ông
đẹp, sinh động. Giai nhân là mùa xuân mơm mởm, là nhụy xuân trinh trắng, là
hương xuân thơm thảo, là gió xuân điều hòa, là nắng xuân mênh mang, là mây xuân
la đà, là bướm xuân rộn ràng, là tình xuân nồng đượm.
Mỹ nữ xuất đông lân,
Dong dữ thượng Thiên Tân.
Chỉnh y hương mãn lộ,
Di bộ miệt sinh trần.
Thủy hạ khán trang ảnh,
Mi đầu họa nguyệt tân.
Ký ngôn Tào Tử Kiến,
Cá thị Lạc Xuyên thần
Dong dữ thượng Thiên Tân.
Chỉnh y hương mãn lộ,
Di bộ miệt sinh trần.
Thủy hạ khán trang ảnh,
Mi đầu họa nguyệt tân.
Ký ngôn Tào Tử Kiến,
Cá thị Lạc Xuyên thần
(Giai nhân từ phía
đông hàng xóm/ Cầu Thiên Tân nhàn hạ bước lên/ Chỉnh xiêm y đầy đường hương bám/ Bụi bay khi nàng chuyển gót sen/ Trên mặt nước dung nhan ẩn hiện/ Đôi mày cong
vòng nguyệt trăng non/ Mượn thơ xưa của Tào Tử Kiến/ Gửi tâm tư đến Lạc Xuyên
thần.) (Vịnh người đẹp tại cầu Thiên Tân).
Bài thơ có kết cấu đề, thực, luận, kết
thật sát hợp, tả người đẹp như một bức tranh, làm xao xuyến bao tao nhân mặc
khách, ý vị vô cùng, sảng khoái vô cùng.
Yêu thích thiên nhiên, say mê bốn mùa,
đặc biệt say mê rượu, trăng , mùa xuân, cảnh đẹp của thiên nhiên, sống một đời
phóng khoáng, tha hương, ngao du đây đó, thường vấn vương hoài cổ, làm thơ theo
lối cổ phong rất được yêu thích. Nhà thơ tôi muốn nói trên là thi tiên Lí Bạch.
Nhà thơ Lí Bạch 701- 762) là một trong những nhà thơ danh tiếng
nhất thời thịnh Đường nói riêng và Trung Hoa nói chung. Thử
đọc một bài của ông: “Nguyệt Hạ Độc Chước”:
Hoa gian nhất hồ tửu,
Độc chước vô tương thân.
Cử bôi yêu minh nguyệt,
Đối ảnh thành tam nhân.
Nguyệt ký bất giải ẩm,
Ảnh đồ tùy ngã thân.
Tạm bạn nguyệt tương ảnh,
Hành lạc tu cập xuân.
Ngã ca nguyệt bồi hồi ;
Ngã vũ ảnh linh loạn.
Tỉnh thì đồng giao hoan,
Tuý hậu các phân tán.
Vĩnh kết vô tình du,
Tương kỳ diểu Vân Hán
(Một
mình uống rượu dưới trăng/ Có rượu không có bạn / Một mình chuốc dưới hoa./ Cất
chén mời Trăng sáng,/ Mình với Bóng la ba./ Trăng đã không biết uống/ Bóng chỉ
quấn theo ta/ Tạm cùng Trăng với Bóng/ Chơi xuân cho kịp mà/ Ta hát, Trăng bồi
hồi/ Ta múa, Bóng rối loạn/ Lúc tỉnh cùng nhau vui/ Say rồi đều phân tán/ Gắn
bó cuộc vong tình/ Hẹn nhau tít Vân Hán.)
Bài thơ nằm trong tâm trạng thi nhân
đang say rượu, say đời. Dường như rượu, hoa, trăng và người hòa trộn nhau trong
cõi nhân sinh biền biệt, trường cửu của mùa xuân, đêm xuân phơi phới. Cái mỹ lệ
cuộc đời như phơi mở trong tâm hồn của thi nhân ngộ đạo. Câu chữ mạnh mẽ, đã đời.
Thi thánh Đỗ Phủ (712 – 770)
là một nhà thơ Trung Quốc nổi tiếng khác. Ông cảm tác rất nhiều
thơ xuân, như để lại nhiều bức tranh đẹp làm xao xuyến và hứng khởi cho nhiều
độc giả trước ngưỡng của xuân phập phồng, bồi hồi xúc động:
Hảo vũ tri thì tiết
Đương xuân nãi phát sinh
Tuỳ phong tiềm nhập dạ
Nhuận vật tế vô thanh
Dã kính vân câu hắc
Giang thuyền hoả độc minh
Hiểu khan hồng thấp xứ
Hoa trọng Cẩm Quan thành
Đương xuân nãi phát sinh
Tuỳ phong tiềm nhập dạ
Nhuận vật tế vô thanh
Dã kính vân câu hắc
Giang thuyền hoả độc minh
Hiểu khan hồng thấp xứ
Hoa trọng Cẩm Quan thành
(Trời tốt, mưa lành
tới / Đang xuân chợt nhẹ rơi / Vào đêm theo với gió/ Êm tiếng mát cho
đời / Đường nội làn mây ám / Thuyền sông ánh lửa ngời / Sớm
trông miền đỏ thắm / Hoa nở Cẩm Thành tươi ) (Đêm xuân mừng mưa)
Bài thơ tả cảnh đẹp, gợi lòng người
niềm vui sống, hào hởi trong tiết trời xuân ấm áp lửa đỏ, hoa nở, mây bay
Bạch Cư Dị (772-846) tự là Lạc
Thiên , hiệu là Hương Sơn cư sĩ , người gốc Thái Nguyên, Sơn
Tây. Thơ ông giản dị, dễ hiểu. Ông có một số bài thơ viết về thiên nhiên u
hoài, nhàn tản, nỗi buồn riêng kín đáo.
Đại Lâm Tự Đào Hoa
Nhân gian tứ nguyệt phương phi tận
Sơn tự đào hoa thủy thịnh khai
Trường hận xuân quy vô mịch xứ
Bất tri chuyển nhập thử trung lai.
(Trong
cõi nhân gian, tháng tư hương thơm đã tan hết/ Nhưng hoa đào ở ngôi chùa trên
núi mới bắt đầu nở rộ/ Ta cứ giận mùa xuân bỏ đi không để lại tung tích/ Mà
không biết rằng (mùa xuân) chỉ chuyển về đây thôi).
Một cánh hoa xuân tình tứ nở trong tâm
hồn nhân sinh. Nhân sinh sống hoa nở. Nhân sinh đi hoa diệt. Lẽ tự nhiên của
trời đất. Nhưng rồi ngẫm đi ngẫm lại mới nhận biết tự ngã của ta giao hòa tự
ngã trời đất. Sống bây giờ và ở nơi đây. Cái đẹp cũng bây giờ và nơi đây, chứ
có xa xăm xa xôi gì !? Triết lý của nhà thơ Bạch Cư Dị không cũ không mới,
không rộng không hẹp, mà xuyên suốt mười mấy thế kỷ, nghĩ mà “ ớn lạnh”, mà cảm
nhận mãnh lực thơ ca vô cùng hồn nhiên, vô cùng sức mạnh và quyến rũ.
Còn vô số bài Đường thi huy hoàng,
tráng lệ của bao thi nhân vẽ nên bao cảnh, bao tình, bao xúc cảm hạnh phúc,
hoặc bao nhớ nhung thao thiết, bao biến đổi cuộc đời, bao mùa xuân vĩnh phúc,
bao gái đẹp lưu ly. Đường thi thấm đẫm mùa xuân, hương xuân, sắc xuân, nắng
xuân, trăng xuân…Từ bấy đến nay vẫn sừng sững uy nghiêm mà giản dị như không
khí để hít thở giữa đời sống.
Huỳnh Minh Tâm
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét