Mộc Nhân - Lê Đức Thịnh
(Bài đăng trên Tạp chí Đất Quảng số tháng 1/ 2015)
Trong ca dao Việt Nam,
hiện tượng nói ngược khá phổ biến. Tìm ra ý nghĩa đích thực của nhiều câu – bài
ca dao nói ngược là việc làm khá lí thú bởi đây không chỉ là sự nói ngược để
vui đùa mà những ẩn ý nghệ thuật tinh tế của hiện tượng này khiến tác phẩm
nhanh chóng đến được với người nghe.
Bước sang tháng Sáu giá chân
Tháng Chạp nằm trần bức đổ mồ hôi
Con chuột kéo cầy lồi lồi
Con trâu bốc gạo vào ngồi trong cong
Vườn rộng thì thả rau rongTháng Chạp nằm trần bức đổ mồ hôi
Con chuột kéo cầy lồi lồi
Con trâu bốc gạo vào ngồi trong cong
Ao sâu giữa đồng, vãi cải làm dưa
Đàn bò đi tắm đến trưa
Một đàn con vịt đi bừa ruộng nương
Voi kia nằm ở gặm giường
Cóc đi đánh giặc bốn phương nhọc nhằn
Chuồn kia thấy cám liền ăn
Lợn kia thấy cám nhọc nhằn bay qua
Trời mưa cho mối bắt gà
Thòng-đong cân-cấn đuổi cò lao xao
Lươn nằm cho trúm bò vào
Một đàn cào cào đuổi bắt cá rô
Thóc giống cắn chuột trong bồ
Một trăm lá mạ đuổi vồ con trâu
Chim chích cắn cổ diều hâu
Gà con tha quạ biết đâu mà tìm
Bong bóng thì chìm, gỗ lim thì nổi
Đào ao bằng chổi, quét nhà bằng mai
Hòn đá giẻo dai, hòn xôi rắn chắc
Gan lợn thì đắng, bồ hòn thì bùi
Hương hoa thì hôi, nhất thơm thì cú...
1. Có nhiều mức độ nói
ngược tham gia vào tác phẩm ca dao. Có khi mức độ nói ngược chỉ vài cụm từ, vài
câu nói ngược trong bài, nhưng ở đây mức độ nói ngược là toàn bài.
Cảm nhận đầu tiên về
những bài ca dao dạng này là tính hài hước tức là nói cho vui, để tạo cảm giác
sảng khoái mới lạ trong việc nhìn nhận thế giới khách quan. Aristote nói "Con
người là một động vật biết cười"; nếu vậy thì người Việt Nam "người" hơn
cả vì người Việt rất hay cười. Về tính hay cười của người Việt, nhà văn Nguyễn
Tuân cho rằng dân ta lúc nào cũng phải đấu tranh với thiên tai địch họa nên “cần
cười” để giải tỏa sự nặng nhọc, để vui mà sống vì khi cuộc sống khiến
con người có cả trăm lý do để khóc, thì đời cũng cho con người có cả ngàn lý do
để cười - nói như Frank Tyger thì: "Tính hài hước lấp đầy những ổ
gà trên đường đời".
Dù Nguyễn Văn Vĩnh thì
coi tính hay cười đó là vô duyên, thậm chí vô nghĩa: “An Nam ta có cái
lạ thế nào cũng cười. Người ta khen cũng cười, người ta chê cũng cười. Hay cũng
hì, dở cũng hì; phải cũng hì, quấy cũng hì...” nhưng một điều chắc
chắn là cái cười làm bộc lộ một nét nào đó trong tính cách người Việt – có thể
là dở, nhưng nhiều khi nó thể hiện một tư duy sâu sắc và khá bất ngờ - Tính
hài hước là ánh mặt trời của tư duy (Edward Bulwer Lytton).
Qua lăng kính mỹ cảm hài
hước, những hình ảnh trong ca dao nói ngược bị đảo lộn trật tự, bản chất và
hành động tạo nên những bức tranh ngộ nghĩnh phi lý, khiến người đọc người nghe
không thể không có được những tiếng cười sảng khoái cho tâm hồn và thể xác. Sau
những giờ lao động mệt nhọc thì "Tiếng cười bằng mười thang thuốc
bổ" - đó là giá trị dễ nhận thấy của bài ca dao này.
2. Tuy nhiên giá trị bài
ca dao không dừng ở đó, hãy thử giải mã các hình ảnh để hiểu được mỹ học nói
ngược trong bài là gì:
Toàn bài ca dao có 3 nhóm
đối tượng được nêu ra để nói ngược là: con người, con vật và các sự vật hiện
tượng.
Bài ca dao mở đầu bằng
hình ảnh con người qua việc nói ngược về thời tiết: "Bước sang
tháng Sáu giá chân / Tháng Chạp nằm trần bức đổ mồ hôi"- mùa
hè thì lạnh chân, mùa đông thì nóng đến nỗi nằm trần cũng đổ mồ hôi. Đây là
những chi tiết ít ỏi nói về con người trong toàn bài. Có lẽ tác giả dân gian
mượn hình ảnh con người để khởi động sự nói ngược, dẫn đến nhân hóa thế giới tự
nhiên ở các câu sau; đồng thời đấy cũng là tín hiệu chỉ ra tính chất ngụ ngôn
của bài ca dao để chuẩn bị cho người đọc một tâm lí tiếp nhận. Phải chăng nếu
nhìn nhận ở góc độ "thiên nhân tương cảm" thì tiếp
sau cái sự không "thuận trời" dường như là điềm báo
trước sự xáo trộn ở con người và xã hội.
Đọc tiếp bài ca dao ta sẽ
thấy ngay sự phi logic trong các hình ảnh nói ngược đang dần tiến đến đỉnh
điểm:
- Về sự ngược đời ở các
con vật thì: Con chuột kéo cầy/ Con trâu bốc gạo/ Đàn bò đi tắm /
Đàn vịt đi bừa...
- Về sự ngược đời ở các
hoạt động thì: Voi nằm gặm giường/ Cóc đi đánh giặc/ Vườn rộng thả rau
/ Ao sâu vãi cải/ Đào ao bằng chổi, quét nhà bằng mai...
- Về sự ngược đời ở các hiện tượng thì: mối
bắt gà/ Thòng-đong đuổi cò/ Hòn đá dẻo dai, hòn xôi rắn chắc / Gan lợn thì
đắng, bồ hòn thì bùi / Hương hoa thì hôi, nhất thơm thì cú…
Sự ngược đời diễn ra ở
hầu hết các bình diện: trong sản xuất nông nghiệp, trong chiến đấu đánh giặc,
trong các hiện tượng tự nhiên và xã hội...
3. Về tâm lý tiếp nhận
thì có sự nói ngược cốt để vui nhưng cũng có nhiều sự đảo ngược trật tự không
thể không gây ra cảm giác thương tâm và gợi nhiều suy nghĩ.
Hình ảnh con chuột nhỏ bé mà phải làm một công việc nặng nhọc trong khi con con
trâu sức vóc to lớn thì lại ăn không ngồi rồi gợi lên sự bất công trong xã hội.
Còn trong hoạt động chiến
đấu, voi lại "nằm ở gặm giường" đùn đẩy chuyện "đánh
giặc bốn phương nhọc nhằn" cho con Cóc!
Đây là những nốt nhấn bi
– hài vừa đối lập nhau vừa quyện chặt lấy nhau tạo nên cảnh "cười
ra nước mắt".
Nói như Dostoievski "Trào
phúng và bi kịch là hai chị em sinh đôi có cùng một cái tên là sự thật" –
sự thật trong đời sống và sự thật trong nhận thức của người đọc.
Và trong một xã hội như
vậy thì mọi thang bậc giá trị cũng bị đảo lộn là điều tất yếu: "Hòn
đá dẻo dai, hòn xôi rắn chắc/ Gan lợn thì đắng, bồ hòn thì bùi...".
Cho nên mọi vật dường như không ở đúng vị trí của chúng, không được sử dụng
đúng chức năng của chúng: "Vườn rộng thì thả rau rong / Ao
sâu giữa đồng, vãi cải làm dưa...".
Những cảnh ngược đời khác lại tiếp tục được vẽ bằng gam màu sẫm hơn, thanh âm
trầm hơn, độ lùi xa hơn vừa làm nền cho bức tranh vừa như lời ghi chú cho bức
tranh.
4. Và đặc biệt trong bài ca dao, sự nói ngược dường như lên đến cao trào qua
nhiều hình ảnh ẩn chứa sự phẫn uất bật lên những mơ ước đổi đời để những thân
phận con ong cái kiến có cơ hội xoay đảo số phận: "Chim chích cắn
cổ diều hâu / Gà con tha quạ biết đâu mà tìm".
Trong không khí nặng nề u
ám của một xã hội bị đảo lộn các giá trị, những câu ca dao mơ ước kia như một
hơi thở phào nhẹ nhõm, một đốm sáng lung linh trên nền đen kịt. Như vậy, đằng
sau cái vẻ "vô lý" gây cười là khát vọng thay đổi một xã hội bất công
và ý thức đấu tranh để một ngày đứng lên lật đổ nó. Ðó có lẽ chính là điều mà
tác giả dân gian muốn thể hiện. Qua chuyện nói ngược họ còn muốn ngầm đả kích,
mong muốn phá vỡ cái trật tự mà các tầng lớp thống trị, thế lực phong kiến đã
thiết lập hàng ngàn năm nay.
Đoạn giữa bài ca dao dù
cất cao như vậy nhưng đó không phải là một kết thúc có hậu mà chỉ là những mơ
ước của nhân dân. Đọc tiếp ta sẽ thấy nhiều hình ảnh nói ngược kéo dài cho đến
cuối bài, sự cường điệu tăng lên với ý khẳng định rằng sự ngược đời vẫn luôn
tiếp tục tồn tại. Đoạn thơ cuối đổi nhịp, không còn những câu lục bát đều đặn
mà giờ đây chuyển sang toàn câu tám chữ với nhịp dài như tiếng thở dài bất lực
của con người. Ước mơ chỉ là ước mơ; những đốm sáng không xua được bóng tối mà
chỉ càng làm cho người ta cảm nhận được cái dày đặc của bóng tối. Voltaire nói "Sự
cường điệu là thứ luôn đi đôi với sự vĩ đại" ; những hình ảnh
cường điệu trong bài ca dao nói ngược đã phản ảnh sự vĩ đại trong tâm hồn, tình
cảm và tư tưởng của nhân dân.
5. Ca dao nói ngược là
một minh chứng về sự sáng tạo vô tận của nhân dân và đằng sau những gì là phi
lý lại ẩn chứa một khát vọng. Cơ chế nói ngược của bài ca dao thực ra rất đơn
giản: từng cặp sự vật, con vật đối lập nhau về đặc điểm, lối sống, hoạt động,
tính cách tạo nên những nghịch cảnh phi logic gây ấn tượng mạnh. Nói theo ngôn ngữ lí luận hiện đại là sự lạ
hóa, sự phá vỡ trật tự thông thường, quen thuộc của sự vật rồi cấu trúc lại
theo một ý đồ nghệ thuật tư tưởng nhất định.
Thấp thoáng trong bài ca
dao là bức tranh sinh động về cuộc sống lao động ở không gian làng quê
với những công việc thường ngày, với những con vật gần gũi với nhà nông
như trâu bò, gà vịt, lợn ếch ... Ở tầng bậc sâu hơn, bài ca dao còn ngầm
phản ánh các mối quan hệ trong xã hội có giai cấp mà kẻ yếu, thấp cổ bé họng
luôn bị ức hiếp, kêu chẳng thấu trời.
Ca dao nói ngược là cách
để nhận thức thế giới khách quan và biểu hiện tâm trạng con người. Đơn giản
nhất, nó miêu tả cái thuộc tính nghịch của tồn tại để có thể phát hiện thuộc
tính thuận bằng cách đánh tráo các thuộc tính đó để nhận thức tồn tại đa dạng
hơn, sâu sắc hơn.
Về phương diện trữ tình,
yếu tố nói ngược đặc biệt hữu dụng khi diễn đạt các tâm sự tới hạn, bức xúc lên
đến cao trào.
Về phương diện mĩ cảm, ca
dao mang yếu tố nói ngược đem đến cái hài, cái bi, rút ra những triết lí thấm
thía về cuộc đời, nhân tình thế thái.
Sự nói ngược của bài ca
dao không chỉ là yếu tố hình thức mà còn là yếu tố nội dung bởi thế hiệu quả
thẩm mỹ mà nó mang lại thật lớn.
Hay nói như Anatole France: "Hài hước, châm
biếm là cuộc hoan hỉ của suy ngẫm và niềm vui của sự sáng suốt".
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét