Nguyễn Tấn Ái
Nhận được những bản thảo của các bạn thơ nữ, chỉ sáu cái tên, rõ ràng là chưa đầy đủ cho thơ nữ hôm nay, tôi trân trọng các bạn thơ đã gửi thơ để chúng tôi tham khảo. Và trân trọng gọi là những gương mặt đại diện. Tiêu chí đại diện ở đây với tôi là tình yêu với thơ ca và nhiệt tình với cuộc chơi văn chương, với hoạt động văn chương của Hội mà hội thảo hôm nay là một ví dụ.
Không có điều kiện đi sâu vào đặc điểm
sáng tạo của từng cá nhân, cũng không thể tìm hiểu các gương mặt thơ như là một
trào lưu, tôi tìm đến điểm chung nhất của các nhà thơ là tâm thức thi ca và tâm
thế sáng tạo.
I. Tâm thức sáng tạo:
1. Vấn đề tâm thức:
Thơ luôn là nơi trú ngụ của những ẩn ức
khó thành lời. Chính sự mơ hồ ngữ nghĩa và sự kín đáo của thi ảnh lại là nơi
trú ngụ của tâm thức với vô vàn những điều khó nói rõ thành lời. Và ở phương diện
tâm thức thơ, thiên tính nữ vẫn thiên về tình yêu, chứ chẳng phải thiên hạ
không hàm hồ chút nào khi gọi thơ ca là nàng thơ đó sao?
Dẫu mỗi nhà thơ chỉ gửi mười bài thơ làm
tiêu biểu cho mình, một lựa chọn thật khó khăn và... đau lòng, song nhận thấy đề
tài tình yêu vẫn là một ưu tiên của các nhà thơ. Mỏng nhất, tiết chế nhất trong
mảng đề tài này là Vương Thi (3 bài), Nguyễn Thị Minh Thùy (4 bài).
Hiện tượng ấy nói gì? Tình yêu có sức sống
bền bỉ ở những nhà thơ nữ. Khi mọi nợ đời tạm thanh thản thì nợ tình yêu vẫn
chưa nguôi. Những người trẻ có lẽ còn nợ nần nhiều với trần thế nên tiết chế
khi nói đến tình yêu chăng?
2. Sự tinh tế trong tình yêu là đặc điểm
của tâm thức nữ:
Nhìn chung thì ứng xử với tình của những
người nữ thường thiên về phía tinh tế, dịu dàng. Dấu hiệu để đọc ra thiên tính
nữ đậm nhất. Nếu đọc thơ tình nam giới trong thời gian gần đây, chúng ta thấy
dường như phá bỏ cái dịu dàng nâng niu như là một phương cách để giải thiêng
tình yêu thì tình yêu với bản tính dịu dàng lại có sức sống lâu bền ở thiên
tính nữ.
Với Nguyễn Thị Phương Dung, một nhà thơ
thuộc thế hệ đàn chị, một cuộc sống giàu trải nghiệm, chị táo bạo và tung phá ở
nhiều cách nhìn, song với tình yêu vẫn là một Phương Dung rất đỗi dịu dàng, khẽ
khàn như khẽ nói:
Em
Người đàn bà tiêu pha đến câu thơ cuối cùng của mình
Vẫn không còn lối thoát
Chợt một hôm nhận ra tiếng hát
Từ trong lồng ngực anh
(Bây giờ và mãi mãi)
Và qua những câu thơ đầu, ta đã nhận ra
thân phận tình yêu luôn là trăn trở da diết và riết róng ở Nguyễn Thị Phương
Dung:
Người đàn bà ấy là người đàn bà cũ
Không có gì hoàn mỹ
Chỉ còn yêu thương nguyên vẹn đến lạ kỳ
(Dạ khúc)
Với Mai Thanh Vinh, xin trang trọng ghi
lại ấn tượng ban đầu khi lần vào tập thơ Một giấc mơ vừa: Mai Thanh Vinh già dặn
câu chữ là kết quả trải nghiệm của một đời thơ. Dù nền nả quen thuộc hay tự do
phá cách chị đều rất chắc tay, thong dong không bị ràng buộc vào khuôn vần hay
nhạc tính. Thơ vì vậy rất tự nhiên.
Ở tình yêu, đôi khi chỉ một tứ thơ lại
được chiêm nghiệm nhiều lần, thử nghiệm bằng nhiều chất giọng.
Là giọng thét gào đòi được quyết liệt:
Biển và ta như lạc giữa cơn mê
Tung sóng trắng thét gào giận dữ
Đâu còn nữa trong biển chiều nghẹn ứ
Nuốt một lời từng muốn nói lại thôi...
(Biển chiều)
Là giọng thỏ thẻ giấu mình:
Nhớ chiều/ thương chiếc lá rơi
Giá như/ được buộc một lời dấu yêu
(Quên)
Là giọng da diết tiếc nuối:
Thèm
Ngả lưng trên sóng
Vu vơ uống cạn nồng nàn
Thèm về tuổi hai mươi
Để tỏ tình lần nữa
(Khi sắc xuân về)
Với nhà thơ Lê Thị Điểm thì ít khi trực
tuyến với tình yêu. Tình yêu trong thơ chị luôn là tiếng nói thầm từ phía sau một
câu chuyện mô tê nào đó. Song cũng đủ để da diết nhớ. Mà không nhớ làm sao được
khi chị thì thầm:
Hãy nhìn từ đằng sau/ anh nhé
Để nét xuân phai
Đỡ chạnh lòng
(Thì thầm)
Khi người đàn bà trong chị vẫn không bao
giờ nguôi một bàn tay vẫy về phía tình yêu:
Hãy luôn lay gọi
Người đàn bà trong em
(Thiên sứ)
Với Nguyễn Thi Minh Thùy, cô gái rất mới
trong làng thơ, mà đã rất thấm thía trong đề tài tình yêu, hãy nghe nỗi buồn của
Thùy nói với ta về những thấm thía ấy:
Anh giấu tất cả vào cơn mơ nhập nhòa tháng sáu
Chỉ giữ lại trên môi một nụ cười buồn
Buồn hơn cả những chiều tuột qua tay em
Buồn hơn cả những đêm ta ru nhau bằng nước mắt
(Bóng anh nhòa
trong chiều mưa)
Cả khi tự “bản lĩnh” mình cũng nhoi nhói trong một bất
cần:
Đưa đôi tay đã nhiều lần sấp ngửa
Tự vuốt lại mình
Và đi
(Bóng anh nhòa
trong chiều mưa)
Vương Thi gia nhập hội thơ đã trẻ hóa đội hình thơ nữ
mà lại cổ điển hóa thơ tình khi tình yêu chỉ thoáng trong giấc mơ sưa:
Tàn xuân hoa cũng lấy chồng
Bầy bươm bướm với mùa không kịp về
Ve nghìn năm vẫn mải mê
Gào lên trong gió lời thề thủy chung
(Tàn sưa)
Khi nỗi trăn trở tình ái tan loãng vào không gian thời
gian, một lựa chọn ít khi được các nhà thơ hôm nay lựa chọn để thể hiện tình
yêu:
Sẽ về đâu anh với nỗi nhớ chông chênh
Mưa tạnh, mây tan trời mênh mông nắng
Cơn sóng qua đi biển kia có bình lặng
Hay tận đáy sâu một vết thương lòng
(Mơ)
Chị Đỗ Thị Kết không lựa chọn tình yêu
làm tiếng nói đại diện của mình. Lựa chọn của chị lại ở một phương diện khác,
và rất ấn tượng, sẽ có dịp ta bàn đến sau.
Mượn
góc nhìn tình yêu, tôi bàn đến tâm thức thơ nữ, để vui mừng nhận ra thiên tính
nữ vẫn là nét riêng của các nhà thơ Quảng Nam hôm nay. Như một truyền thống, ứng
xử với thơ và đặc biệt với tình yêu, các nhà thơ nữ vẫn nghiêng về phía dịu
dàng, tiết chế, chừng mực, cả khi họ rất riêng.
Dường như vào những năm 80 người đầu
tiên có khuynh hướng giải thiêng tình yêu ở nữ giới là Dư Thị Hoàn, rồi kế tiếp
vào những năm 90 là Vi Thùy Linh. Thơ nữ Quảng Nam không có sự kế tục hay không
thiên về khuynh hướng ấy? Tôi không nghĩ như thế, chỉ có điều các cây bút nữ ấy
là không lấy giải thiêng làm lựa chọn để trình làng, hay chỉ là vốn riêng để
các chị tự thưởng thức. Tôi nghĩ vậy bởi có lúc đã được nghe một ý thơ rất ác
liệt ở một “nghi phạm” có mặt hôm nay:
Đêm đêm ngửa nón ra đường
Hốt trăm thiên hạ phố phường điêu ngoa
Đêm về lật trái tim ra
Lựa một chiếc bóng để mà tương tư
(Phương Dung)
II. Tâm thế sáng
tạo:
Trong mỗi con người thì khát khao chính
đáng và tầm cỡ nhất vẫn là khát khao được sống một lần hết mình với đời bằng
chính bản ngã của mình. Nhiều cuộc cách mạng tư tưởng, những thành tựu triết học
tựu trung lại cũng chỉ để giải phóng bản ngã, để trao quyền sống cho bản ngã.
Con người khi đối diện với xã hội thường băn khoăn về sự nghiệp, và khi đối
bóng với mình lại rất băn khoăn về bản ngã. Thơ là một sự đối ảnh đàm tâm, người
làm thơ thường trong tâm thế diện bích khai tâm nên ý thức bản ngã, khát khao
thể hiện bản ngã lại thường rõ nét nhất.
Đó là cái bản ngã muốn sống hết mình một
lần thật đủ với cuộc đời để không tự trách mình hờ hững:
Phương Dung:
Thương cho hết những ngày mưa trộn nắng
Những khóc cười lẫn lộn cuối chiêm bao
(Bài tháng sáu)
Mai Thanh Vinh:
Phất phơ như thể cuộc chơi
Loay hoay đốt cháy ngàn lời trống không
(Lục bát cuối
năm)
Lê Thị Điểm:
Tôi là ai?
Bạn là ai?
Vô danh vô thực ta bày cuộc chơi
(Đêm và
facebook)
Minh Thùy:
Bỗng một ngày
Ta trở thành người lớn
...
Bỗng một ngày
Ta được gọi: Nhà thơ
(Danh nghĩa)
Vương Thi:
Sống một đời mộng viết cả nghìn thu
(Viết)
Khát khao khẳng định bản ngã bằng thơ
cũng đồng nghĩa với khao khát khẳng định bản ngã bằng một tài năng. Bởi thơ
chính là sáng tạo. Là cảm xúc riêng biệt. Là cách mời cuộc đời gọi tên mình.
Không đem cái tôi cá nhân ra mà phân chất như cách các nhà thơ nam vẫn thích
thú thường dùng, nhà thơ nữ lấy cái khát khao sống cạn ngày cạn giờ với tư thế
nhà thơ làm điểm tựa và đích đến cho hành trình sáng tạo. Vẫn chừng mực, đó
chính là hạn chế đáng yêu của các nhà thơ nữ Quảng Nam.
Và cuối cùng khi bàn đến tâm thế sáng tạo,
tôi băn khoăn câu hỏi: Thơ có vị trí thế nào với người nữ hôm nay?
Thời đại mà công nghệ thông tin hỗ trợ đắt
lực để con người tự thể hiện mình, với thơ ca đó cũng là một lợi thế. Chẳng phải
đã có khá nhiều gương mặt văn chương được bạn bè người đọc công nhận rộng rãi
trước khi chính thức đến với diễn đàn văn học tỉnh nhà đó sao?
Thi ca đã giải phóng người phụ nữ khỏi
cái tầm quẩn quanh gia đình, công việc để có diện tiếp xúc xã hội rộng rãi hơn.
Thi ca giúp người nữ khẳng định vị trí nghệ thuật của mình giữa xã hội. Những
tâm lý kín đáo bị che đậy bị khuất lấp bởi bất tiện của giới tính cũng được tỏ
bày. Thi ca nếu không là sự nghiệp của người nữ thì cũng là chốn đi về nương
náu cần thiết của người nữ, sau mái gia đình của họ. Điều này rõ nhất ở nhà thơ
Đỗ Thị Kết khi mà chị rất thành công ở mảng đề tài lịch sử. Ở đó chị được thoát
khỏi cõi nhân sinh bé nhỏ để thao thức cũng những vấn đề lớn lao của lịch sử, để
trải nghiệm và kinh nghiệm về nhiều vấn đề có tầm quốc gia, dân tộc. Hầu như vấn
đề lịch sử nào cũng được chị quan tâm. Và ở mảng nào cũng thấy trăn trở của người
thơ.
Trăn trở về vụ án Lệ Chi viên:
Kia sao Khuê vằng vặc bầu trời
Soi mỗi trái tim, soi mãi muôn đời
(Vằng vặc sao
Khuê)
Về bi tình của chàng Trọng Thủy:
Để khi hối tiếc còn đâu nữa
Giếng thẳm gieo mình, ta với ta
(Dấu xưa)
Về linh hồn Chăm nữ:
Mắt em trong vắt mà chan chứa
Thăm thẳm nỗi niềm qua tháng năm
(Vẫn là em)
Lựa chọn cách sống sâu với mảng đề tài lịch
sử của Đỗ Thị Kết một mặt rất riêng, mặt khác cũng rất thống nhất với tâm thức
thơ của những nhà thơ nữ: Cảm xúc được che dấu qua một khúc xạ, và khao khát
thi ca ấy cũng sống bền lâu với sự bền lâu của lịch sử.
Xin được trân trọng cảm ơn các nhà thơ
đã gửi những tâm huyết của mình để đóng góp vào hội thảo!
Xin lỗi nếu có và chắc sẽ có, những thẩm
thơ, những nghĩ thơ chưa gặp được sự đồng điệu của các nhà thơ!
N.T.A
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét