17/1/21

1.939. THƠ NỮ - VĂN HỌC QUẢNG NAM

 Nguyễn Chiến


MN: Giữa tháng 01 năm 2021, Chi hội Văn học - Hội VHNT tổ chức buổi hội thảo về đề tài “Thơ nữ Quảng Nam”. MN đăng lại một số bài biết trong hội thảo này.

Chi hội văn học Quảng Nam có 10 tác giả nữ làm thơ: Lê Thị Kiều Chinh, Nguyễn Thị Phương Dung, Lê Thị Điểm, Huỳnh Thu Hậu, Đỗ Thị Kết, Hồ Loan, Ngô Thị Thục Trang, Vương Thi, Nguyễn Thị Minh Thùy, Mai Thanh Vinh (không kể những tác giả văn xuôi thi thoảng cũng có thơ trên báo). Thơ họ xuất hiện nhiều trên các phương tiện truyền thông. Họ đã là những cái tên, tuy mức độ lan tỏa của từng người có khác nhau.

    Nhà thơ nữ là thi nhân thì sự nghiệp văn học chính của họ là thơ. Song dường như, đối với họ, chỉ với thơ thôi không đủ để họ dốc cạn tâm tư. Nhiều người đã thử sức mình trên những thể loại khác và đã có những thành công. Ngô Thục Trang, Nguyễn Thị Phương Dung, Hồ Loan, Lê Thị Điểm, Vương Thi với truyện ngắn, tạp văn. Huỳnh Thu Hâụ với tiểu luận phê bình. Sức viết, năng lực sáng tạo của họ không hề nhỏ. Cũng có ý kiến rằng: thi sĩ thì tập trung làm thơ, một đời chưa chắc đã để lại gì riêng cho thơ, mắc chi phung phí sức bút sang thể loại khác. Sở trường bao giờ cũng hơn sở đoản. Đặt vấn đề như thế cũng đáng để nghĩ suy. Nhưng nhà thơ đâu phải lúc nào cũng có thi hứng, “lấn sân” sang thể loại khác là một cách để thử sức mình, để “nói” cho hết, cho tỏ tường những điều không thể “nói” hết bằng thơ…

    Trong 10 nữ nhà thơ thì có đến 6 là nhà giáo (tỉ lệ giáo viên trong toàn Chi hội khá cao: 29/75). Thơ của nhà giáo có gì khác biệt? “Danh hiệu”: nhà giáo – nhà thơ, nhà giáo – nhà văn mang ý nghĩa gì? Trong lời giới thiệu cho tập truyện ngắn Bản hòa âm thôn dã của nhà giáo Võ Nguyên, GS Nguyễn Đăng Mạnh chỉ ra nhược điểm của tác phẩm: “…thóí quen nghề nghiệp đã khiến anh hay để lộ ý hướng giáo huấn quá rõ rệt, nhất là những đoạn kết luận”*. Như vậy, nghề nghiệp chẳng làm vinh, chẳng giúp gì cho thơ, cho văn; ngược lại đã “âm thầm” làm nên những hạn chế cho những tác giả là nhà giáo – nhà thơ, nhà văn. Thơ mà rõ nghĩa và khuôn thước như lời thầy có lẽ không còn là thơ nữa; văn mà “lộ ý hướng giáo huấn rõ rệt” như GS Nguyễn Đăng Mạnh nói, thì văn đó khó được độc giả đồng cảm, chấp nhận. Theo tôi, nhà giáo là nhà giáo, nhà thơ là nhà thơ. Đừng để hình bóng ông giáo, bà giáo soi xuống trang thơ. Nhà giáo làm thơ, viết văn khó khăn hơn so với người viết làm nghề khác. Vì ngồi trước trang giấy, họ phải giấu bớt cái tôi nhà giáo; phải dè chừng thói quen nghề nghiệp, không để cho nó làm cho trang viết vo tròn và mang nặng tính giáo hóa. Dường như 6 tác giả thơ nữ nói trên của Chi hội văn học Quảng Nam đã nhìn ra “nguy cơ” hồn thơ bị khuôn thước nhà giáo o ép.  Nguyễn Thị Minh Thùy tự tra vấn, nhận ra con người nghệ sĩ của mình khó mà sống hòa hợp, bình yên với con người nhà giáo:

vẫn biết cuộc sống này có những điều ta phải đánh đổi

nhưng tại sao đó lại là bục giảng?

tại sao lại là phấn trắng bảng đen?

Niềm vui, nỗi đau ở đời mênh mông, làm gì có chừng mực. Chiếc áo của người nghệ sĩ phải là chiếc áo lấm láp bụi đời, không thể là chiếc áo “sạch sẽ” của nhà giáo nơi bục giảng. Huỳnh Thu Hậu đã can đảm tỏ bày:

em không cần mực thước

không cần sự đạo mạo

trang nghiêm

chỉ cần em được là người đàn bà đích thực

Đọc thơ của các nhà thơ nữ Quảng Nam, thấy thơ họ mở ra phía cuộc đời rộng lớn và cũng là để đi sâu khám phá chính mình. Đề tài thơ họ khá phong phú, từ chuyện chợ búa, con cái, nhà cửa đến chuyện yêu đương, chuyện người, chuyện đời, chuyện quê hương, đất nước, dân tộc, lịch sử. Qua đó, các chị trải lòng, bộc lộ “bản lai diện mục” với những sắc màu khác nhau.

Hình ảnh quê hương trong thơ họ có khi là làn hương thoảng trong vườn cừa, là tàn sưa bên bến vắng:

hương vẫn thơm Vườn Cừa

sưa vẫn vàng bến vắng

   (Vương Thi)

Có khi là hình ảnh “Ức Trai/Khuê tảo/Ngời ngời…”(Đỗ Thị Kết). Sâu đậm nhất là hồi ức về quê hương tuổi thơ: 

tuổi thơ là lúc tắm mưa

cả bầy đen thui đen thủi

chạy từ làng trên xóm dưới

gái trai chi cũng cởi truồng

    (Vương Thi)

Nhiều dư vị khó quên là mảng hồi ức về quê nhà của Ngô Thị Thục Trang:

em – con gái miền Trung

nấu ăn nêm nhiều gia vị

cọ ngực sông Thu suốt tuổi mười lăm

lên sáu bồng em

mười tuổi sàng gạo

mùa đông bấu mười ngón chân đường trơn đến lớp

rút mái tranh nhen lửa thổi cơm

nón cời trải lúa phơi giữa đường

vừa đuổi gà vừa ngủ gật

Hay:

tôi băng qua cánh đồng của tôi

thả diều bay một miền gió khác

tôi băng qua cánh đồng của tôi

mùi bùn đất mỗi ngày mỗi nhạt

tôi đi ngang những cánh đồng làng

đàn cò vút lên

buổi chiều ập xuống

mùa gặt vàng ươm

mồ hôi người thấm mặn

tôi nhặt bông lúa rơi như nhặt lại mình

nhặt lại tôi của những bình minh

những trưa rang trời

những chiều mây thẳm

nhặt lại tôi của cánh chuồn chở mùa trên cánh mỏng

tre nở hoa rồi

tôi có về quảy gánh đồng xa?

(Ngô Thị Thục Trang)

Trong thơ các chị cũng thấp thoáng hình ảnh dòng sông nhưng không xiết xoáy, cồn cào trong hồn và tạo thành dòng chảy văn hóa xứ Quảng như trong thơ của các nam thi sĩ quê nhà. Tôi nhớ có một bạn văn Quảng Ngãi rất thân thiết với anh em văn nghệ Quảng Nam nhận xét: nếu không cho các thi sĩ Quảng Nam viết về Thu Bồn, Vu Gia, Trường Giang… thì không biết họ còn làm được thơ và có thơ hay nữa không! Một nhận xét vui nhưng làm ta giật mình. Đã có một dòng sông thơ ca xứ Quảng. Mong các chị, nhiều hơn nữa, làm đẹp thêm dòng sông âý bằng thi cảm của mình.

Các chị viết nhiều về tình yêu, một “anh” nào đó thường có mặt trong thơ của các chị. Đó có thể người đang yêu, người đã yêu, người sẽ yêu; cũng có thể là đối tượng trữ tình để các chị bộc bạch, giãi bày. Tình yêu trong thơ các chị nhiều cung bậc. Có những mối tình thơ:

ta đi suốt tháng ba tìm nụ sưa vàng

gặp lại thời mười sáu

thời  ngu ngơ đánh rơi trái tim con gái

dưới chân một bài thơ …

(Nguyễn Thị Phương Dung)

Có những cuộc tình yêu một lần đau một đời. Cơn đau tình ái trong thơ các chị không dữ dội, day dưa như trong thơ của các nam thi sĩ. Hình như các chị cố giấu đi niềm đau, không để cho câu thơ òa khóc mà ta vẫn thấy hình ảnh một T.T.K.H khác, cũng đau tình nhưng không “mang tiếng” lụy tình:

muốn ôm cả trời xưa ấy

em nay gái đã có chồng

van anh hãy tìm duyên khác

đừng chờ em nữa được không !?

(Hồ Loan)

Có khi lấp lánh niềm đam mê thân xác :

em muốn cắn mây trắng

thèm hôn lên gió

khi nỗi nhớ chàng

em lịm vào anh

đắm đuối

(Huỳnh Thu Hậu)

gió lùa nhẹ cởi vạt êm

xoã dải yếm để mặc đêm tự tình

(Hồ Loan)

Những câu thơ đẹp, thể hiện mối giao hòa tột cùng của tình yêu như thế rất ít trong thơ các chị. Tình yêu trong thơ các chị mang vẻ đẹp thuần khiết, trong lành. Thiếu chút libido giấu sau câu chữ thì sẽ như là “tình ái của ni cô”(Hàn Mặc Tử), dẫu cũng “thơm”, cũng giàu mĩ cảm nhưng có lẽ không thực như vốn có trong đời. Có thể coi đây là một nhược điểm trong thơ tình của các nữ thi sĩ trong Chi hội chăng? Và như thế, tiếc cho một cơ hội giải thiêng cho thơ đã bị bỏ qua.

Cái tôi trữ tình trong thơ các chị, dễ nhận mặt nhất, là cái tôi trữ tình dịu dàng đắm say. Nhỏ nhẻ tỏ bày và cứ thế đi vào lòng người:

em là loài phong lan rừng hoang dại

bung nở tự nhiên

giữa tơi bời mưa gió...

và ta

đã ở bên tê bờ xuân sắc

mắc mớ chi khản tiếng gọi đò

cứ đứng giữa hàng cây đẫm gió

chăm chỉ đơm hoa,

kết nụ nồng nàn

(Lê Thị Điểm)

buổi về lại Quảng Nam đứng ở đầu sông ta khóc đầy sông nước

thôi đành làm ngọn gió hoang

nắng thì trú mái hiên quen

mưa lẫn vào kẻ lá

may ra giấu được nỗi buồn

(Nguyễn Thị Phương Dung)

Nhiều khi ném vào thơ cái tôi xù xì, góc cạnh. Một khát vọng “cuồng ngông” rất đẹp:

Thèm

ngả lưng lên sóng

vu vơ uống cạn nồng nàn

thèm

về tuổi hai mươi

để tỏ tình lần nữa

rằng yêu anh

như thể lần đầu

(Mai Thanh Vinh)

Nỗi buồn đã ngấm, đã sâu, đã thành mĩ cảm của nỗi buồn:

buồn hơn cả những chiều tụt qua tay em

buồn hơn cả những đêm ta ru nhau bằng nước mắt

(Nguyễn Thị Minh Thùy)

Bạn như ráng đỏ chân trời

Tôi con sóng khát

đau vời vợi đau

Mỗi mình đối diện đêm thâu

Giọt rơi mằn mặn nát nhàu chiêm bao

(Lê Thị Điểm)

Đó là nỗi buồn đau của thân phận con người. Ngườì thơ cảm thức về sự nhỏ bé, mong manh của kiếp người trước cái vô biên của vũ trụ nhưng vẫn không nguôi khát vọng và cứ mãi đi tìm, tìm chính mình, mà trước mặt là ngả ba, ngả bảy:

chỉ mình em lang thang

tự ru mình bằng những vòng xe vô định

đôi tay chập choạng giữa ngả ba đường

(Nguyễn Thị Minh Thùy)

em

người đàn bà một mình

trước ngả năm ngả bảy của thân phận

tần ngần chọn một lối về

đèn chưa lên

mê lộ đã nhập nhòa

em bắt đầu tìm lại em

tìm lại người đàn bà nhiều năm qua đã chết

(Nguyễn Thị Phương Dung)

Nỗi cô đơn cũng hạ sinh từ đó. Cô đơn của phận người gặp nỗi cô đơn của người nghệ sĩ trong hành trình sáng tạo trở thành “lời buồn thánh”, thành nỗi riêng sâu đậm trong thơ Nguyễn Thị Phương Dung. Chị có những đoạn, những câu lấp lánh nỗi buồn đẹp và sang trọng:

ta về đâu

ta bơ vơ một cõi

ta chở theo lòng mình ngàn ngàn cụm lục bình chưa kịp trổ

và ngàn ngàn cụm tàn khô

(Nguyễn Thị Phương Dung)

Về hình thức thể hiện, có điều gì để bàn thảo không? Thơ Việt Nam hôm nay đã và đang trở mình theo hướng hiện đại hóa. Cho nên người làm thơ Việt, dù ý thức hay không, dù ít hay nhiều, đều mang tâm thức hậu hiện đại. Biểu hiện của tâm thức này trong thơ rất đa dạng: giao thoa thể loại, yếu tố liên văn bản, yếu tố giễu nhại, phân mảnh, lắp ghép, lấy chữ làm mục đích biểu đạt…, Theo GS La Khắc Hoà, biểu hiện tập trung trong cách tân thơ Việt hiện nay ở hai khuynh hướng: tối giản, co ngắn câu thơkéo dài câu thơ như câu văn xuôi.**  Đó là xu hướng phá vỡ cấu trúc hình thức của thơ cũ. Nhiều chị đã có ý hướng vận dụng các bút pháp mới để tạo nên hiệu ứng cho tác phẩm, tuy vậy chưa thành lối quen, thành điểm sáng thẩm mĩ cho thơ mình. Ý thức làm mới thơ như vậy đáng được ghi nhận và biểu dương.

     Thơ nữ của Chi hội văn học Quảng Nam đã góp phần làm nên diện mạo của mảnh đất thơ “chưa mưa đà thấm”, của một xứ sở yêu thơ vào loại nhất nhì đất nước. Có chị đã là những cái tên quen trong lòng ngươì đọc, có chị còn đang định hình phong cách, có chị nhẩn nha dạo chơi trên thi đàn tìm vui với vần điệu, câu chữ. Các chị đã lựa chọn con đường “khổ hạnh” (chữ dùng của Nguyễn Tuân),  “đau đớn và đắm say” mà bước tới, và đi hết đời mình lại như mới khởi hành. Rất trân trọng các chị và mong các chị, dọc đường đi, hái được những bông hoa thơ ngát hương đời…

                                                                                N.C

 ------------------------

* Nguyễn Đăng Mạnh – Vài ý nghĩ về tập truyện của Võ Nguyên (Lời giới thiệu tập truyện Bản hòa âm thôn dã của Võ Nguyên, sở VHTT Bình Thuận, 1994)

** Dẫn theo TS Nguyễn Thanh Tâm, trong tiểu luận "Chúng ta đã phản bội thơ như thế nào". (Tham khảo nguồn)

-------------------------

Bài cùng chủ đề: Tại đây

Không có nhận xét nào: