Mộc Nhân - đọc chùm truyện ngắn Nguyễn Vĩnh
Tôi lại có duyên đọc bản thảo tập truyện ngắn thứ hai/ tác phẩm văn học thứ tư của Nguyễn Vĩnh (sách chưa in). Tôi cố gắng đọc chậm, lưu giữ, ghi chú chi tiết về các nhân vật, mốc thời gian, những chuyển biến dời đổi của sự kiện… bởi ký ức và trải nghiệm đời sống của anh – một người lính – khác hẳn với tôi, với chúng ta, nhất là ở giai đoạn đất nước còn chiến tranh.
Mười hai truyện ngắn được anh kể lại như một cuốn phim với nhiều
phân cảnh, dẫn chúng ta đi đến nhiều không gian, thời gian và con người trên một
miền đất đầy lửa đạn, bi thương nhưng cũng thắm tình người, tình quê hương, đất
nước. Những gì hiện ra trước mắt độc giả là vùng quê trung du với chiến trận,
phận người, huyền tích gắn với lịch sử, trải qua nhiều thế hệ…
Triền sông thơ ấu là
câu chuyện gia đình quen thuộc mà mỗi người có thể tìm thấy mình trong đó, nơi “Người
cha không hoàn hảo, nhưng vẫn yêu thương con theo cách hoàn hảo nhất” và “Những
điều bạn học được từ cha mình luôn nhiều hơn so với những gì bạn học được ở trường.
Mẹ Chuỷ kể về người mẹ bám đất giữ
làng, mọi nỗi đau, mất mát mẹ đều đau đớn lặng im, nước mắt rơm rớm mà không
dám khóc thành tiếng, để rồi khắc khoải trong bao đêm dài không ngủ. Mùa lau trắng ven sông có hình ảnh của
người lính trẻ “không những đẹp trai mà còn oai vệ… bước chân nhanh nhẹn... môi
luôn nở nụ cười” nhưng rồi anh đã “gửi lại sau lưng tuổi hai mươi thanh xuân,
tràn trề hoa cỏ. Tiễn anh, rập rờn mùa lau trắng ven sông.”
***
Những
truyện ngắn của Nguyễn Vĩnh được kể trong không gian ký ức của tác giả. Cái mà
nghệ sĩ Erick, người Bỉ, nói: “Chúng ta là những gì mà chúng ta nhớ” (We are what we remember). Các nhân vật ở
đây dường như có mối liên hệ nào đó trong gia đình và làng xóm.
Truyện
ngắn Những năm tháng ấy kể về
sự hy sinh của những người thân trong gia đình bà Hường. Chồng và hai con lớn lần
lượt bỏ thân xác lại nơi núi rừng nhưng bà cũng sàng động viên người con út ra
trận. Một gia đình đông người, giờ “day trở phía nào cũng trống trơn” để ngày
chiến thắng “Giọt nước mắt lần này có vui, có buồn lẫn lộn”. Những câu chuyện
như thế mở
ra biết bao bi thương thời chiến: càn quét, đốt làng, dồn dân, thanh trừng, thủ
tiêu người kháng chiến... Ngòi bút của tác giả bộc lộ rõ sở trường khi
tái hiện những mảnh đời, những số phận bị cuộc chiến tàn phá. Nó không gây ám ảnh
người đọc ở chất máu lửa được tô đậm nơi chiến trận mà là những hệ lụy, những vết
thương chiến tranh và sự bù đắp từ tình người. Ẩn sâu bên trong là ước mơ về cuộc
sống hòa bình, yên vui, hạnh phúc mà chúng ta có thể bắt gặp mình trong đó.
Bối cảnh
trong truyện ngắn của anh, nếu không là căn nhà tạm miền quê nơi chiến tranh
đang rình rập, thì cũng chìm trong xóm làng nơi người ta thầm thĩ những mẩu
chuyện không dám nói to ở cả hai phía; hay trong khu rừng, bờ suối nơi những đồng
đội gặp nhau để kết nối. Nó xuất hiện như một đối trọng của cái chết, thù hằn,
để bảo vệ những giá trị nhân bản, hướng về khát vọng tự do, độc lập của một thế
hệ.
Những
địa danh như Đò Ba Bến, Hà Nha, Lộc Vĩnh, Hà Vy, Thượng Đức, Quảng Đà… chỉ dấu
cho quê xứ tác giả. Nơi mạch chuyện của Nguyễn Vĩnh, đôi khi hằn vết bi thương;
đôi khi “lồng lộng khát vọng thanh xuân của những chàng trai trẻ đang bay lên
bay cao, để nhìn thấy người bạn đời dấu môi thắm hồng” (Hoa Gạo); khi thì chùng xuống với những huyền tích trên vùng đất về
một vị “tiên phong đạo cốt… tu luyện trên núi Bằng Am, với nhiều quyền năng kỳ
bí trên có thể biết cơ trời, dưới có thể sai khiến ma quỷ…” (Dưới dải mây màu ngũ sắc) gợi cho người đọc
yếu tố địa linh, nơi niềm tin trường sinh mãi còn
hiện hữu thiên thu.
Hoặc
câu chuyện của Nụ, một cô gái “người gầy lép như con mắm, lưu lạc với đứa
con được quấn trong mớ giẻ rách, không ai biết cô từ đâu tới…” nhưng cuối cùng
trở thành “bà ba của lão phú hộ, môi Nụ mọng tươi, hây hây nụ cười hạnh phúc”.
Những nhân vật như Nụ là sản phẩm của xã hội thời loạn, như một thứ định mệnh
bao trùm lên con người, làm biến dạng nhân tính trong một hoàn cảnh mà nhân hình
vẫn tìm cách để tồn tại.
Các
câu chuyện thành những phiên bản đời sống, cứ thế lênh đênh khắp đất trời, núi
rừng, sông suối, làng mạc của người kể, và nó cũng được những người bạn của tác
giả tái hiện trong buổi chiều thơm thơm khói rạ đồng làng - Chuyện bên đĩa ba chỉ nướng.
Nhân vật
trong truyện ngắn Nguyễn Vĩnh tuy chưa sắc nét để trở thành nhân vật điển hình
nhưng tất cả họ đều có bản chất thật thà, thiện lương, sống theo đạo nghĩa và sẵn
sàng hy sinh.
***
Với
phong cách ngôn ngữ hiện thực, Nguyễn Vĩnh kể chuyện khá tự nhiên, không tự sự
chủ quan áp đặt, không phức tạp hoá tính cách nhân vật, không làm cho chuỗi sự
việc trở nên khó theo dõi. Tất cả tạo thành những bức chụp, tuy riêng lẻ, nhưng
có khả năng kết nối thành một không gian tượng trưng cho các sự kiện của một miền
đất lịch sử. Nếu soi chiếu dưới góc nhìn của Roger Grenier “truyện ngắn
là thời điểm, tiểu thuyết là thời gian” thì nhiều truyện của anh đảm bảo cả hai
yếu tố này – thời điểm và thời gian.
Nguyễn
Vĩnh viết về đề tài chiến tranh bằng một giọng văn hết sức tỉnh táo, mang cái nhìn
chân thực của người trong cuộc, không biểu tượng và sắc lạnh đến đau đớn, cũng
không hằn học vết thương quá khứ… nhưng đủ để chúng ta cảm nhận những phẩm chất
của người lính, khơi gợi sự kính trọng và lòng biết ơn người đã ngã xuống; và hiểu
được những bi kịch của số phận.
Tôi
thích câu văn tự sự của anh có chất thơ, điều này có lẽ xuất phát từ việc
anh vốn là nhà thơ nên chất liệu ngôn ngữ đã làm cho văn xuôi của anh đẹp và đằm
thắm; hay nói theo Raymond Jean, "truyện ngắn phải mang dấu ấn của thi pháp
thơ ca”. Tuy nhiên nhìn ở góc độ khác, nó khiến lời kể chuyện của anh ít gay cấn,
cấu trúc tác phẩm còn để lộ cái kết không có sự bất ngờ, để giúp mở ra vô vàn giả
định cho bạn đọc.
Nhưng
tôi đồ rằng, Nguyễn Vĩnh không cần tạo dựng điều đó, anh viết như kể lại cho bạn
bè bên mâm rượu. Và tự thân mỗi câu chuyện là nhằm mang đến một cái nhìn mới về
những gì xảy ra trước đó và mở ra một không gian ở nơi “Gió giông hun hút, ánh chớp chói
lòa.”
Mộc
Nhân Lê Đức Thịnh
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét