Mộc Nhân
Một năm học mới lại đến
trong cơn khủng hoảng triền miên của giáo dục: chạy trường,
chạy điểm để vào được các lớp đầu cấp của trường VIP, cơ sở giáo dục nhất
là ở vùng sâu vùng xa chưa đảm bảo cho hoạt động dạy học, tình trạng giáo viên
nơi thừa nơi thiếu, bệnh thành tích ảo, báo cáo láo, thiếu trung thực… Những
cơn khủng hoảng mãn tính đó chưa yên thì nay lại nảy sinh thêm những di căn mới.
Chẳng hạn như các "quái ngôn" của ngài Bộ trưởng bộ GD – trích lại tóm tắt:
- Ngành giáo dục phải học
tập ngành công an, quân đội: lấy điểm đầu vào thật cao, cho hưởng lương cao, bảo
đảm chỗ làm khi ra trường thì chất lượng giáo dục sẽ nâng cao (!)
- Muốn tinh giảm biên chế
trong ngành GD thì đưa hết giáo viên đang biên chế ra hợp đồng (!)
Chẳng hạn như các cơ sở
đào tạo đang trong tình trạng sống dở chết dở:
- Tuyển giáo sinh vào
ngành sư phạm với điểm 3 môn thi dưới 10 điểm
- Giáo viên được đào tạo
khi ra trường thì thất nghiệp nhưng không đào tào thì giáo viên ở các cơ sở đào
tạo thất nghiệp.
Các hiện tượng:
- Thí sinh đạt 30 điểm vẫn
trượt đại học
- Thí sinh thấp điểm
nhưng nhờ ưu tiên nên vẫn đỗ ĐH trong khi nhiều em học giỏi, điểm cao nhưng vẫn
không được nhận vào học…
Một bức tranh toàn cảnh
của GD không mấy sáng sủa khiến cho hình ảnh giáo viên và ngành GD trông rất thảm.
Đành rằng bức tranh nào cũng có chỗ tối chỗ sáng, ngành nghề nào cũng có người
tốt người xấu chỗ đúng chỗ sai nhưng một ngành nghề được xem là “phương diện quốc
gia” là “nguyên khí quốc gia” thì sự thảm hại của nó là đáng báo động.
Một anh bạn giáo viên
nói vui: chỉ có mấy ông lãnh đạo Bộ GD làm xấu giáo viên chứ giáo viên không
làm xấu mình. Tất nhiên đó là một câu nói chưa phải là đúng hoàn toàn vì những
chuyện “gạ tình đổi điểm”, “giáo viên dâm ô”, “giáo viên bạo lực”… thỉnh thoảng
vẫn xảy ra đây đó; nhưng câu nói ấy có ý nhấn mạnh vai trò của lãnh đạo ngành
mà cụ thể là bộ trưởng GD – trong việc chấn hưng GD.
Chúng tôi không có ý định
so sánh GD và GV ở Việt Nam với các nước khác vì sự so sánh ấy dẫn đến mủi
lòng.
- Đất nước còn nghèo, đồng lương giáo viên ít ỏi nên có đòi hỏi cũng không
được tăng lương ngay mà phải theo “lộ trình”;
- Cơ sở vật chất thiếu thốn có kêu
ca cũng không được đáp ứng ngay mà phải chờ “sự quan tâm của các cấp chính quyền”;
- Áp lực dạy học (do chương trình, do nhân cách đạo đức học sinh xuống cấp nghiêm
trọng, do dư luận xã hội…) đè nặng lên giáo viên, có than thở cũng không giải
quyết được gì vì đó là qui chế, cơ chế, pháp lệnh, là luật;
- Áp lực học tập của
học sinh cũng nặng nề (do chương trình, do học thêm, học các lớp nâng cao bồi
dưỡng, lớp luyện thi, do tham gia các hoạt động phong trào…) nhưng đó là nhiệm
vụ, là tương lai bản thân và gia đình, là yêu cầu “giáo dục toàn diện”.
Tôi nhẩm
tính với 1 học sinh giỏi lớp 9 được học tập “toàn diện” – chỉ với bộ môn Ngữ
văn thì một tuần các em sẽ học môn này 18 tiết bao gồm: 5 tiết chính khóa +
9 tiết bồi dưỡng học sinh giỏi tại trường (3 buổi/ mỗi buổi 3 tiết) + 4 tiết học thêm (2
buổi/ mỗi buổi 2 tiết). Đó là chưa kể các môn khác.
Ngành GD đang khổ mình với
những cơn đau hậu phẫu sản khoa: từ chuyện vĩ mô như các loại hình thí điểm:
thí điểm kiểu dạy theo chương trình trường học mới VNEN, thí điểm thay đổi
chương trình, thí điểm thay đổi đánh giá, thí điểm đổi mới, tranh cãi về chương
trình và sách GK… đến các chuyện vi mô như: chỉ tiêu thi đua, “sáng kiến kinh
nghiệm”, giáo án, các phong trào, các hội thi, các kiểu ứng dụng vận dụng công nghệ thông tin, các loại phần mềm, các lớp tập huấn cứ lặp đi lặp lại… Tất cả đều có lí do để tồn tại song hành với hoạt động GD nhưng rốt lại chỉ làm cho giáo dục rối lên như
mắc tóc, giáo viên nản lòng chán ngán... rồi muốn gỡ rối lại phải mất thì giờ và tiền bạc cho hội thảo, rút kinh
nghiệm, đánh giá lại, sửa đổi, bổ sung, các công văn chỉ thị chỉ đạo xóa hội thi này, bỏ cuộc thi kia…
Nhà trường là một bộ phận
cấu thành xã hội nhưng khi nhà trường được xem là xã hội thu nhỏ với các màu sẫm:
từ nạn chạy chức, chạy quyền đến nạn chạy trường, chạy điểm, làm tiền, làm
tình, tham ô, thiếu kỉ cương, thiếu chính danh “thầy ra thầy, trò ra trò”… thì
đó là nhà trường hoen ố, phản ảnh đạo đức xã hội đang suy đồi, phản ảnh rối loạn xã hội,
báo động khủng hoảng với những hệ lụy khó lường.
Khủng hoảng GD là một vấn
đề đã được nói nhiều và nó có quan hệ với các cơ chế kinh tế, xã hội. Kinh tế
Việt Nam đã chuyển từ cơ chế bao cấp sang quy luật của thị trường, nhưng nền
giáo dục thì vừa được bao cấp như là hoạt động mang tính công ích (hành chính sự
nghiệp) vừa phải vận động theo quy luật thị trường (thu chi, cạnh tranh giữa
các cơ sở GD, thu nhập của giáo viên...).
Trong cơ chế ấy, sự đảo
lộn các giá trị cũng là điều dễ hiểu. Các môn học đào tạo các giá trị nhân bản,
khai sáng, làm cho con người có lí trí và tư duy độc lập (xưa kia gọi là “thượng
khoa”) như: triết học, khoa học xã hội và nhân văn xưa kia được đề cao nay bị
xem là “hạ khoa” vì chẳng giúp ích gì cho việc kiếm sống về sau vì con người hiện
đại phải gắn liền với các hoạt động sản xuất và tạo ra các thành tựu, giá trị vật
chất cho xã hội. Sự thay đổi ấy là tất yếu vì nó là một nhu cầu của con người
và xã hội trong thời đại những giá trị vật chất và danh hảo lên ngôi mà thể hiện
rõ nét nhất là người ta ngưỡng vọng, trọng dụng những người có nhiều tiền, nhiều
bằng cấp và đánh giá con người bằng “tiêu chí” chứ không bằng thực chất.
Sự khủng hoảng của GD hiện
nay thể hiện sự khủng hoảng của triết lí GD. Đó là hiện trạng khủng hoảng lớn hơn hết trong
tất cả các khủng hoảng.
Người ta đang bàn đến một nền tảng triết lý giáo dục mới nhưng chưa thấy ai nói cụ thể triết lý đó là gì mà chỉ
chắp vá bằng các khẩu hiệu: “Giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc”, “Giáo dục con
người mới toàn diện”, “Kỷ cương tình thương trách nhiệm”, “Tiên học lễ hậu học
văn”… Tất cả những điều ấy không được gọi là Triết lý giáo dục vì nó không được
xây dựng và phát triển trên cơ sở một nền tảng lý luận vững chắc, mà trên cơ sở
kinh nghiệm chắp vá và duy ý chí. Nền tảng lý luận mà chúng ta cần phải xây dựng dựa
trên một triết lý giáo dục hiện đại phản ánh đầy đủ mục tiêu và các nguyên lý
căn bản của giáo dục như các nước phát triển. Triết lý giáo dục phải chứa đựng
những 2 điều cốt lõi: (1) - Mục tiêu tối hậu của giáo dục là gì và (2) - để đạt
mục tiêu ấy cần phải hành động theo phương châm nào? Và bằng phương pháp nào?
GD của chúng ta chưa đề
ra 2 điều ấy một cách có hệ thống, có tính pháp lý, tạo sự đồng thuận trong xã
hội nên chưa thể có một triết lý GD đúng nghĩa.
Theo tôi, dù là triết lý
GD gì đi nữa thì triết lý ấy phải là nền tảng cho nền giáo dục vì con người, những
gì không phù hợp với con người không nên có trong giáo dục. Những gì vì con người
phải được thể hiện đầy đủ, cụ thể trong hoạt động giáo dục. Xây dựng bằng được
triết lý GD để hệ thống giáo dục không sai đường, tạo niềm tin của nhân dân. Vậy nên nội
dung chương trình hay khẩu hiệu giáo dục có thể thay đổi chứ triết lý không thay đổi. Có thay đổi chăng cũng nhằm phù hợp với triết lý GD mà thôi.
Tuy
nhiên, dù triết lý GD là gì, phương pháp giáo dục ra sao, môi trường GD thế nào
đi nữa… thì yếu tố con người (người thầy, người làm công tác GD) cũng mang tính
quyết định.
Người
xưa dùng khái niệm “chính danh” để khái quát các giá trị mà “danh” ấy phải có.
Cụ thể là đã mang “danh” thầy thì phải hội đủ các yếu tố như: đạo đức, năng lực,
ứng xử, nhân cách, tài năng, tâm huyết, gương mẫu… trong bối cảnh GD hiện đại,
cái “danh” thầy còn được bổ sung thêm nhiều phẩm chất mới như tự học, sáng tạo,
tiếp cận cái mới… Người thầy là người gây cảm hứng học tập và người hướng dẫn trí tuệ. Nếu không có người thầy tốt, chúng ta không thể có một nền GD đàng hoàng.
Xem
ra để một nền GD vì con người thì cần đến con người.
Người
lãnh đạo ngành phát ngôn tùy tiện, đề ra những kế hoạch chắp vá; người thầy thiếu
tâm và tài… thì sự chuyển biến của GD sẽ còn là một câu chuyện nhiều tập chưa có
hồi kết.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét