Nhân kỉ niệm 210 năm ngày sinh nhà thơ lớn của nước Mỹ
Edgar Allan Poe (1809 - 2019)
Edgar Allan Poe (1809 - 2019)
Edgar Allan Poe là một
nhà văn, nhà thơ, nhà biên kịch, và nhà phê bình văn học người Mỹ, được xem là
một cây đại thụ lớn của văn học Mỹ thế kỷ 19. Nhân kỉ niệm 210 năm (1809 –
2019) ngày sinh của ông, Mộc Nhân lưu lại vài thông tin về ông và bản dịch bài
thơ nổi tiếng “The Raven” (Con Quạ), tác phẩm tiêu biểu cho bút pháp sáng tác của
ông.
1. Edgar Allan Poe sinh
ngày 19/1/1809 tại thành phố Boston, tiểu bang Massachusetts trong một gia đình
nghệ sĩ. Người cha, David Poe, mất khi cậu con trai Edgar chưa chào đời, còn
người mẹ Eliza cũng từ trần lúc Edgar Poe mới tròn ba tuổi. Cậu bé mồ côi được
John Allan, một nhà buôn thuốc lá giàu có nhận về nuôi, cho đi học nhưng khi
vào Đại học Virginia ông lại đăng kí vào quân đội. Trong thời gian quân ngũ này
ông bắt đầu viết sách và đã gây tiếng vang lớn. Từ đó ông theo hẳn nghiệp
văn chương.
2. Văn nghiệp: Edgar
Allan Poe được coi là người mở đầu cho “chủ nghĩa tượng trưng" (Symbolism)
không chỉ ở văn đàn nước Mỹ mà còn ảnh hưởng trực tiếp và sâu rộng đến các nhà
thơ lãng mạn Pháp như Charles Baudelaire, Mallarmé, Valéry... . Pautốpxki
(Nga) còn cho rằng "thơ ca của ông đã trở thành báu vật không chỉ đối với
thơ ca Mỹ mà còn của thơ ca toàn thế giới”.
Đặc điểm của thơ tượng
trưng nói chung là không miêu tả, phản ảnh trực tiếp đối tượng hay cảm xúc
mà “nói về một cái lớn hơn chính nó”. Ba cách biểu hiện phổ biến
của thơ tượng trưng: Một là mượn các dấu hiệu trong thiên nhiên (natural
symbols) để biểu đạt nội dung. Hai là dùng những biểu tượng theo quy ước (Conventional
symbols) được chấp nhận trong một tập thể nào đó. Ba là lấy những biểu tượng
trong văn chương (Literacy symbols) kết hợp bởi cả hai cách ở trên cộng
thêm yếu tố tâm lý, quan niệm, thế giới quan của nhà văn.
Nhiều nhà văn, nhà thơ Mỹ từ nửa đầu thế kỷ XIX cũng
đã có ý thức trong cách sử dụng các biểu tượng nghệ thuật tượng trưng nhưng có
lẽ Edgar Poe là người có những dấu hiệu sớm nhất và để lại ấn tượng
độc đáo nhất. Trong hầu hết sáng tác thơ của Poe, những yếu tố tượng trưng
trên dường như là thủ pháp nghệ thuật làm nên hồn thơ của ông. Trường
ca The Raven (Con quạ) chính là bài thơ tiêu biểu nhất cho nghệ thuật
tượng trưng độc đáo ấy.
3. Bài thơ “Con quạ” (The Raven) – sáng tác tiêu biểu của
ông:
Bài thơ “The raven”
(Con quạ) được xuất bản lần đầu tiên vào năm 1945. Nội dung bài thơ kể về cuộc
viếng thăm bất ngờ và ma mị của con quạ trong một đêm mưa với chàng trai đang
đau khổ vì mất đi người yêu (Lenore). Con quạ càng kích động chàng trai hơn khi
trong cuộc đối thoại, nó cứ lặp đi lặp lai cụm từ “never more”.
Trong bài này tác giả đã
sử dụng ngôn ngữ và hình ảnh tượng trưng khá đậm nét. Trước hết là
ngay bản thân hình ảnh con quạ theo dân gian nó bị coi là con chim báo điềm
gở. Tiếng kêu của nó sẽ mang đến tai hoạ cho những ai bất hạnh bị nó đến nhà.
Con quạ cổ quái ấy lại xuất hiện trong một thời gian và không gian đêm đông lạnh
lẽo, gợi lên sự tăm tối, sầu thảm, thê lương. Vì thế, hình tượng con quạ giữa
đêm cuối năm vừa tượng trưng cho sự bí hiểm của đêm đen, vừa là một cái gì đó sắp
kết thúc, và một năm mới – một sự thay đổi cũng sắp bắt đầu.
Hình ảnh tượng trưng tiếp
theo trong bài thơ mà nhiều người quan tâm là bức tượng bán thân bằng thạch cao
trắng toát của nữ thần Palas (a bust of Pallas). Sự tương phản đối lập giữa
con quạ đen đúa xấu xí chỉ biết lặp đi lặp lại mỗi một từ “Nevermore”
(không bao giờ nữa) và màu trắng thanh khiết của vị nữ thần khôn ngoan trong thần
thoại Hy Lạp phải chăng để ta ngầm hiểu rằng những điều con quạ nói không hẳn
là những điều ngu muội, điên rồ mà là một điềm báo trước, đầy thông thái,
tinh khôn? Bài thơ đã gói trong nó tất cả những đặc trưng tiêu biểu
nhất của ngòi bút tượng trưng Edgar Poe.
Cách kể chuyện trong
bài thơ đi theo thời gian hồi tưởng, nhân vật trần thuật thường là ngôi thứ nhất
nên mang dáng dấp những tự thú, dằn vặt, qua ngôn ngữ độc thoại do chính nhân vật tự
kể lại câu chuyện kì dị, khủng khiếp của mình. Kĩ thuật này góp phần phơi bày
những giằng xé nội tâm của nhân vật.
Ngoài ra Poe cũng nhấn
mạnh kĩ thuật xây dựng cấu trúc với một điểm chính, có tính cách nghệ thuật,
kích thích gọi là điệp khúc (refrain). Điệp khúc chỉ được lặp lại về
âm thanh, chứ không được đơn điệu về ý tưởng nhằm tránh sự nhàm chán và gây cảm
xúc mới cho người đọc. Trong bài thơ “Con quạ”, kỉ thuật điệp được sử dụng
ở các hình thức : điệp từ, điệp ngữ, điệp cấu trúc, điệp câu, điệp vòng tròn… Cụ
thể cụm từ “Nothing more” (điệp 6 lần), “Nevermore” (điệp 11 lần),
“chamber door” (9 lần )…
4. Bài thơ “The Raven”
(Con Quạ) của Edgar Poe và bản dịch của Mộc Nhân - nguyên bản từ nguồn "Nhà thơ Hoa Kỳ":
CON QUẠ
1.
Giữa một đêm mưa buồn xa xưa, khi
tôi trầm tư rã rượi
Trước trang sách cũ đã lãng quên
Khi tôi đang thiếp đi , đột nhiên
có tiếng động bên ngoài
Tựa ai gõ cửa - gõ vào cửa buồng
"Khách nào vậy", tôi khẽ
nói - tiếng động đang gõ vào cửa buồng ;
Chỉ vậy thôi, và chẳng có gì thêm.
Once
upon a midnight dreary, while I pondered, weak and weary
Over
many a quaint and curious volume of forgotten lore
While
I nodded, nearly napping, suddenly there came a tapping,
As
of someone gently rapping, rapping at my chamber door.
"
'Tis some visitor," I muttered - tapping at my chamber door;
Only
this, and nothing more.
2.
Ah, tôi nhớ rõ, đó là vào một đêm
hoang liêu Tháng Chạp
Mỗi thanh củi tàn dần , đổ bóng ma
lên sàn
Tôi mong trời mau sáng; bõ công mượn
sách
Từ những trang sách ngăn cơn sầu -
sầu Lenore đã ra đi
Người trinh nữ rạng ngời , được
thiên thần gọi Lenore
Giờ tên nàng chẳng còn trên đời nữa.
Ah,
distinctly I remember, it was in the bleak December,
And
each separate dying ember wrought its ghost upon the floor.
Eagerly
I wished the morrow; vainly I had sought to borrow
From
my books surcease of sorrow, sorrow for the lost Lenore,
For
the rare and radiant maiden whom the angels name Lenore,
Nameless
here forevermore.
3.
Và tiếng lụa xột xoạt buồn bã trên
từng tấm rèm màu hồng
Làm tôi sợ hãi – vây kín hồn tôi nỗi
khiếp sợ chưa thấy bao giờ
Lúc ấy, tim vẫn đập, tôi tự nhủ
"Có khách bên ngoài xin cứ vào
phòng”
Có khách muộn xin cứ vào phòng
Chỉ vậy thôi, và chẳng có gì thêm.
And
the silken sad uncertain rustling of each purple curtain
Thrilled
me - filled me with fantastic terrors never felt before;
So
that now, to still the beating of my heart, I stood repeating,
"
'Tis some visitor entreating entrance at my chamber door,
Some
late visitor entreating entrance at my chamber door.
This
it is, and nothing more."
4.
Lúc này tôi đã mạnh dạn, chẳng còn
e ngại nữa
Tôi bảo: "Quý ông hay quý bà,
thực lòng xin thứ lỗi
Quả tình tôi đang thiếp giấc, mà
quí vị lại gõ quá nhẹ nhàng
Lại đập quá khẽ - vào cửa buồng
tôi
Tôi không dám chắc là đã nghe tiếng
gõ"
Còn giờ đây tôi mở rộng cửa
Ngoài đó đêm đen, và chẳng có gì
thêm.
Presently my soul grew stronger;
hesitating then no longer,
"Sir,"
said I, "or madam, truly your forgiveness I implore;
But
the fact is, I was napping, and so gently you came rapping,
And
so faintly you came tapping, tapping at my chamber door,
That
I scarce was sure I heard you."
Here
I opened wide the door
Darkness
there, and nothing more.
5.
Nhìn sâu vào đêm thẳm, tôi đứng đó
thật lâu trầm tư, sợ hãi
Nghi ngại những mộng mơ chẳng ai
dám mơ
Nhưng im lặng không phá vỡ, vẫn vậy
chẳng thêm điều gì
Và chỉ một từ được thốt lên, bằng tiếng
thì thầm
"Lenore!" , đấy là
tôi thì thầm và nghe vọng lại một từ
"Lenore!" đơn thuần
vậy thôi, và chẳng có gì thêm.
Deep into the darkness peering, long I stood
there, wondering, fearing
Doubting,
dreaming dreams no mortals ever dared to dream before;
But
the silence was unbroken, and the stillness gave no token,
And
the only word there spoken was the whispered word,
“Lenore
!”, This I whispered, and an echo murmured back the word,
"Lenore
!" Merely this, and nothing more.
6.
Quay lại căn phòng, lòng tôi bất an
Chặp sau lại nghe một tiếng đập, to
hơn lần trước
Tôi tự nhủ, "chắc có gì ngoài
cửa sổ
Hãy ra xem ngoài ấy có bí ẩn
gì
Hãy bình tâm , rồi sẽ tìm ra bí ẩn
này
Nhưng chỉ có gió, chẳng có gì thêm
nữa
Back
into the chamber turning, all my soul within me burning,
Soon
again I heard a tapping, something louder than before,
"Surely,"
said I, "surely, that is something at my window lattice.
Let
me see, then, what thereat is, and this mystery explore.
Let
my heart be still a moment, and this mystery explore.
"
'Tis the wind, and nothing more."
7.
Tôi mở tung cửa, con quạ vung vinh
vỗ cánh dồn dập bước vào
Một con quạ bệ vệ, trang nghiêm của
những ngày thiêng xưa cũ
Chẳng hề cung kính, không lúc nào dừng
lại hay đứng yên
Mà với bộ mặt đài các kiêu kỳ đậu
vào phía trên cánh cửa buồng tôi
Đậu trên tượng bán thân thần
Pallas, đặt ngay phía trên cánh cửa buồng tôi
Đậu chễm chệ thế thôi, chẳng có gì
hơn nữa
Open
here I flung the shutter, when, with many a flirt and flutter,
In
there stepped a stately raven, of the saintly days of yore.
Not
the least obeisance made he; not a minute stopped or stayed he;
But
with mien of lord or lady, perched above my chamber door.
Perched
upon a bust of Pallas, just above my chamber door,
Perched,
and sat, and nothing more.
8.
Thế rồi con chim màu mun này làm
khuôn mặt buồn của tôi tươi cười
Bằng cái dáng điệu nghiêm trang khắc
khổ của nó
Tôi bảo : "Cho dù đầu ngươi bị
xén trụi lông nom ngươi chẳng nỗi hèn nhát
khủng khiếp, cổ lỗ, bay lang thang
khỏi bóng đêm
Cho ta biết quí danh ngươi nơi địa
ngục là gì
Con quạ kêu lên: "Không bao giờ
nữa"
Then
this ebony bird beguiling my sad fancy into smiling,
By
the grave and stern decorum of the countenance it wore,
"Though
thy crest be shorn and shaven thou," I said, "art sure no
craven,
Ghastly,
grim, and ancient raven, wandering from the nightly shore.
Tell
me what the lordly name is on the Night's Plutonian shore."
Quoth
the raven, "Nevermore."
9.
Tôi kinh ngạc khi nghe con chim xấu
xí nói rõ lời
Dù câu trả lời khá vô nghĩa - vu
vơ
Bởi chúng ta không thể tin rằng đời
này
Có ai được thấy con chim hay con thứ
sống bên cánh cửa phòng mình
Nó đậu ngay trên pho tượng phía
trên cửa phòng mình
Với một cái tên: "Không bao giờ
nữa"
Much
I marvelled this ungainly fowl to hear discourse so plainly,
Though
its answer little meaning, little relevancy bore;
For
we cannot help agreeing that no living human being
Ever
yet was blessed with seeing bird above his chamber door,
Bird
or beast upon the sculptured bust above his chamber door,
With
such name as "Nevermore."
10.
Nhưng con quạ đậu đơn độc trên pho
tượng câm lặng ấy,
Chỉ nói mỗi một từ, dường như nó
trút cả linh hồn vào đó
Rồi nó chẳng thốt thêm lời nào, lặng
yên không động cánh
Cho đến khi tôi khẽ thì thầm:
"Bạn bè đã bỏ tôi từ trước
Và ngày mai nó lại sẽ bỏ tôi, như
bao hi vọng đã bay đi
Lời quạ kêu lên: "Không bao giờ
nữa"
But
the raven, sitting lonely on that placid bust, spoke only
That
one word, as if his soul in that one word he did outpour.
Nothing
further then he uttered; not a feather then he fluttered;
Till
I scarcely more than muttered, "Other friends have flown before;
On
the morrow he will leave me, as my hopes have flown before."
Then
the bird said, "Nevermore."
11.
Giật mình trước sự yên tĩnh bị phá
vỡ bởi tiếng trả lời rành rõ
Tôi liền bảo: "Những gì nó thốt
ra là toàn bộ vốn ngôn từ
Bắt chước ở ông chủ bất hạnh từng chịu
tai ương
Bám riết không rời cho đến khi những
bài ca nước mắt
Và những lời ai điếu hy vọng u buồn
Trong cụm từ "Không bao giờ -
không bao giờ nữa"
Startled at the stillness broken by reply
so aptly spoken,
"Doubtless,"
said I, "what it utters is its only stock and store,
Caught
from some unhappy master, whom unmerciful disaster
Followed
fast and followed faster, till his songs one burden bore,
Till
the dirges of his hope that melancholy burden bore
Of
"Never - nevermore."
12.
Nhưng con quạ lại làm khuôn mặt buồn
của tôi tươi tắn
Tôi bèn tiến đến ngồi trước con
chim, trước pho tượng bán thân và cánh cửa
Rồi trên tấm đệm nhung , tôi chìm
sâu vào miên tưởng
Tưởng tượng rằng con chim quái dị
này từ xa xưa
Là loài chim ác nghiệt, vụng về, kinh
dị, buồn thảm và điềm gở
Khi muốn gì thì kêu lên "Không
bao giờ nữa"
But
the raven still beguiling all my sad soul into smiling,
Straight
I wheeled a cushioned seat in front of bird, and bust and door;
Then,
upon the velvet sinking, I betook myself to linking
Fancy
unto fancy, thinking what this ominous bird of yore –
What
this grim, ungainly, ghastly, gaunt and ominous bird of yore
Meant
in croaking "Nevermore."
13.
Lúc này, tôi đành ngồi ngẫm đoán
nhưng nghĩ được gì
Còn chú chim thì đôi mắt rực lửa
thiêu đốt tận tâm can
Tôi ngồi nán thêm lúc nữa mà suy
đoán, suy tư nhẹ nhàng thoải mái
Ánh đèn phủ lên rìa thảm nhung tím
Nàng sẽ ôm lấy nó nhưng không bao
giờ nữa !
Thus
I sat engaged in guessing, but no syllable expressing
To
the fowl, whose fiery eyes burned into my bosom's core;
This
and more I sat divining, with my head at ease reclining
On
the cushion's velvet lining that the lamplight gloated o'er,
She
shall press, ah, nevermore!
14.
Rồi tôi cảm thấy không khí đậm đặc
hơn, có mùi thơm từ một lư hương vô hình
Có thần ma nào đó lắc lư cùng tiếng
chân khẽ vang trên thảm
Tôi thét lên: "Khốn nạn thay,
xin Chúa hãy nương tay qua vị thần này
Hãy gửi tới lòng bao dung – bao
dung để quên đi nàng Lenore."
Hãy uống, uống đi chút rượu giải sầu
này và quên đi nàng Lenore đã mất
Con quạ kêu: "Không bao giờ nữa"
Then,
methought, the air grew denser, perfumed from an unseen censer
Swung
by seraphim whose footfalls tinkled on the tufted floor.
"Wretch,"
I cried, "thy God hath lent thee -- by these angels he hath
Sent
thee respite - respite and nepenthe from thy memories of Lenore!
Quaff,
O quaff this kind nepenthe, and forget this lost Lenore!"
Quoth
the raven, "Nevermore!"
15.
"Kẻ báo điềm gở kia!" -
Tôi bảo - "Đồ xấu xa kia, mi là chim hay là quỷ"
Kẻ cám dỗ gởi ngươi đến, hay bão
táp quăng ngươi dạt vào nơi này
Người cô độc lại nghênh ngang ,
trên mảnh đất hoang vu kì diệu này
Trong ngôi nhà ám ảnh này - ta van
ngươi hãy nói thật
Liệu ngươi có nhựa hương Gilead ? -
ta van ngươi hãy nói thật
Con quạ kêu lên: "Không bao giờ
nữa"
"Prophet!"
said I, "thing of evil! - prophet still, if bird or devil!
Whether
tempter sent, or whether tempest tossed thee here ashore,
Desolate,
yet all undaunted, on this desert land enchanted—
On
this home by horror haunted - tell me truly, I implore
Is
there - is there balm in Gilead ? - tell me--tell me I implore!
Quoth
the raven, "Nevermore."
16.
"Kẻ báo điềm gở kia!" -
Tôi bảo - "Đồ xấu xa kia, mi là chim hay là quỷ"
Trên trời cao nhìn xuống, chúng ta đều có chúa mà tôn thờ
Xin hãy bảo cho tâm hồn trĩu nặng
này, nếu có thể được
Cho tôi còn được ôm thánh nữ , được
các thiên thần gọi tên Lenore
Cho tôi còn được ôm thánh nữ , được
các thiên thần gọi tên Lenore
Con quạ kêu lên: "Không bao giờ
nữa"
"Prophet!"
said I, "thing of evil--prophet still, if bird or devil!
By
that heaven that bends above us--by that God we both adore—
Tell
this soul with sorrow laden, if, within the distant Aidenn,
It
shall clasp a sainted maiden, whom the angels name Lenore---
Clasp
a rare and radiant maiden, whom the angels name Lenore?
Quoth
the raven, "Nevermore."
17.
Tôi đứng dậy gào lên : "Là
chim hay là quỷ, lời ngươi là dấu hiệu chia lìa".
Hãy quay về với dông bão và bờ Đêm
địa ngục
Đừng bỏ lại một chiếc lông nào làm
lưu dấu cho lời dối trá mà hồn ngươi thốt ra
Rời khỏi pho tượng trên cánh cửa buồng
ta
Hãy rút mỏ ra khỏi tim ta và mang
hình hài ngươi biến sau khung cửa
Con quạ đáp lời: "Không bao giờ
nữa"
"Be
that word our sign of parting, bird or fiend!" I shrieked, upstarting—
"Get
thee back into the tempest and the Night's Plutonian shore!
Leave
no black plume as a token of that lie thy soul hath spoken!
Leave
my loneliness unbroken! -- quit the bust above my door!
Take
thy beak from out my heart, and take thy form from off my door!"
Quoth
the raven, "Nevermore."
18.
Và con quạ không hề động cánh, vẫn
im lìm, đứng im lìm
Trên bức tượng Pallas bán thân bên
cánh cửa
Và con mắt nó, dường như là mắt quỷ
đương mơ ngủ,
Và ánh đèn trên cao đổ bóng sàn
nhà
Và hồn tôi khi nào thoát khỏi bóng
quạ đen dập dềnh trên sàn
Không thể nào nhấc lên - không bao
giờ nữa!
And
the raven, never flitting, still is sitting, still is sitting
On
the pallid bust of Pallas just above my chamber door;
And
his eyes have all the seeming of a demon's that is dreaming.
And
the lamplight o'er him streaming throws his shadow on the floor;
And
my soul from out that shadow that lies floating on the floor
Shall
be lifted - nevermore!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét