19/1/19

1.336. EDGAR ALLAN POE và bài thơ CON QUẠ

Nhân kỉ niệm 210 năm ngày sinh nhà thơ lớn của nước Mỹ
Edgar Allan Poe (1809 - 2019)

Edgar Allan Poe là một nhà văn, nhà thơ, nhà biên kịch, và nhà phê bình văn học người Mỹ, được xem là một cây đại thụ lớn của văn học Mỹ thế kỷ 19. Nhân kỉ niệm 210 năm (1809 – 2019) ngày sinh của ông, Mộc Nhân lưu lại vài thông tin về ông và bản dịch bài thơ nổi tiếng “The Raven” (Con Quạ), tác phẩm tiêu biểu cho bút pháp sáng tác của ông.

1. Edgar Allan Poe sinh ngày 19/1/1809 tại thành phố Boston, tiểu bang Massachusetts trong một gia đình nghệ sĩ. Người cha, David Poe, mất khi cậu con trai Edgar chưa chào đời, còn người mẹ Eliza cũng từ trần lúc Edgar Poe mới tròn ba tuổi. Cậu bé mồ côi được John Allan, một nhà buôn thuốc lá giàu có nhận về nuôi, cho đi học nhưng khi vào Đại học Virginia ông lại đăng kí vào quân đội. Trong thời gian quân ngũ này ông bắt đầu viết sách và đã gây tiếng vang lớn. Từ đó ông theo hẳn nghiệp văn chương.

2. Văn nghiệp: Edgar Allan Poe được coi là người mở đầu cho “chủ nghĩa tượng trưng" (Symbolism) không chỉ ở văn đàn nước Mỹ mà còn ảnh hưởng trực tiếp và sâu rộng đến các nhà thơ lãng mạn Pháp như Charles Baudelaire, Mallarmé, Valéry... . Pautốpxki (Nga) còn cho rằng "thơ ca của ông đã trở thành báu vật không chỉ đối với thơ ca Mỹ mà còn của thơ ca toàn thế giới”.
Đặc điểm của thơ tượng trưng nói chung là không miêu tả, phản ảnh trực tiếp đối tượng hay cảm xúc mà “nói về một cái lớn hơn chính nó”.  Ba cách biểu hiện phổ biến của thơ tượng trưng: Một là mượn các dấu hiệu trong thiên nhiên (natural symbols) để biểu đạt nội dung. Hai là dùng những biểu tượng theo quy ước (Conventional symbols) được chấp nhận trong một tập thể nào đó. Ba là lấy những biểu tượng trong văn chương (Literacy symbols) kết hợp bởi cả hai cách ở trên cộng thêm yếu tố tâm lý, quan niệm, thế giới quan của nhà văn.
            Nhiều nhà văn, nhà thơ Mỹ từ nửa đầu thế kỷ XIX cũng đã có ý thức trong cách sử dụng các biểu tượng nghệ thuật tượng trưng nhưng có lẽ Edgar Poe là người có những dấu hiệu sớm nhất và để lại ấn tượng độc đáo nhất. Trong hầu hết sáng tác thơ của Poe, những yếu tố tượng trưng trên dường như là thủ pháp nghệ thuật làm nên hồn thơ của ông. Trường ca The Raven (Con quạ) chính là bài thơ tiêu biểu nhất cho nghệ thuật tượng trưng độc đáo ấy.
            3. Bài thơ “Con quạ” (The Raven) – sáng tác tiêu biểu của ông:
Bài thơ “The raven” (Con quạ) được xuất bản lần đầu tiên vào năm 1945. Nội dung bài thơ kể về cuộc viếng thăm bất ngờ và ma mị của con quạ trong một đêm mưa với chàng trai đang đau khổ vì mất đi người yêu (Lenore). Con quạ càng kích động chàng trai hơn khi trong cuộc đối thoại, nó cứ lặp đi lặp lai cụm từ “never more”.
Trong bài này tác giả đã sử dụng ngôn ngữ và hình ảnh tượng trưng khá đậm nét. Trước hết là ngay bản thân hình ảnh con quạ theo dân gian nó bị coi là con chim báo điềm gở. Tiếng kêu của nó sẽ mang đến tai hoạ cho những ai bất hạnh bị nó đến nhà. Con quạ cổ quái ấy lại xuất hiện trong một thời gian và không gian đêm đông lạnh lẽo, gợi lên sự tăm tối, sầu thảm, thê lương. Vì thế, hình tượng con quạ giữa đêm cuối năm vừa tượng trưng cho sự bí hiểm của đêm đen, vừa là một cái gì đó sắp kết thúc, và một năm mới – một sự thay đổi cũng sắp bắt đầu.
Hình ảnh tượng trưng tiếp theo trong bài thơ mà nhiều người quan tâm là bức tượng bán thân bằng thạch cao trắng toát của nữ thần Palas (a bust of Pallas). Sự tương phản đối lập giữa con quạ đen đúa xấu xí chỉ biết lặp đi lặp lại mỗi một từ “Nevermore” (không bao giờ nữa) và màu trắng thanh khiết của vị nữ thần khôn ngoan trong thần thoại Hy Lạp phải chăng để ta ngầm hiểu rằng những điều con quạ nói không hẳn là những điều ngu muội, điên rồ mà là một điềm báo trước, đầy thông thái, tinh khôn? Bài thơ đã gói trong nó tất cả những đặc trưng tiêu biểu nhất của ngòi bút tượng trưng Edgar Poe.
Cách kể chuyện trong bài thơ đi theo thời gian hồi tưởng, nhân vật trần thuật thường là ngôi thứ nhất nên mang dáng dấp những tự thú, dằn vặt, qua ngôn ngữ độc thoại do chính nhân vật tự kể lại câu chuyện kì dị, khủng khiếp của mình. Kĩ thuật này góp phần phơi bày những giằng xé nội tâm của nhân vật.
Ngoài ra Poe cũng nhấn mạnh kĩ thuật xây dựng cấu trúc với một điểm chính, có tính cách nghệ thuật, kích thích gọi là điệp khúc (refrain). Điệp khúc chỉ được lặp lại về âm thanh, chứ không được đơn điệu về ý tưởng nhằm tránh sự nhàm chán và gây cảm xúc mới cho người đọc. Trong bài thơ “Con quạ”, kỉ thuật điệp được sử dụng ở các hình thức : điệp từ, điệp ngữ, điệp cấu trúc, điệp câu, điệp vòng tròn… Cụ thể cụm từ “Nothing more” (điệp 6 lần), “Nevermore” (điệp 11 lần), “chamber door” (9 lần )…

4. Bài thơ “The Raven” (Con Quạ) của Edgar Poe và bản dịch của Mộc Nhân - nguyên bản từ nguồn "Nhà thơ Hoa Kỳ":


                         CON QUẠ
1.
Giữa một đêm mưa buồn xa xưa, khi tôi trầm tư rã rượi
Trước trang sách cũ đã lãng quên
Khi tôi đang thiếp đi , đột nhiên có tiếng động bên ngoài
Tựa ai gõ cửa - gõ vào cửa buồng
"Khách nào vậy", tôi khẽ nói - tiếng động đang gõ vào cửa buồng ;
Chỉ vậy thôi, và chẳng có gì thêm.

Once upon a midnight dreary, while I pondered, weak and weary
Over many a quaint and curious volume of forgotten lore
While I nodded, nearly napping, suddenly there came a tapping, 
As of someone gently rapping, rapping at my chamber door. 
" 'Tis some visitor," I muttered - tapping at my chamber door; 
Only this, and nothing more.

2.
Ah, tôi nhớ rõ, đó là vào một đêm hoang liêu Tháng Chạp  
Mỗi thanh củi tàn dần , đổ bóng ma lên sàn 
Tôi mong trời mau sáng; bõ công mượn sách 
Từ những trang sách ngăn cơn sầu - sầu Lenore đã ra đi
Người trinh nữ rạng ngời , được thiên thần gọi Lenore 
Giờ tên nàng chẳng còn trên đời nữa.

Ah, distinctly I remember, it was in the bleak December, 
And each separate dying ember wrought its ghost upon the floor. 
Eagerly I wished the morrow; vainly I had sought to borrow 
From my books surcease of sorrow, sorrow for the lost Lenore,
For the rare and radiant maiden whom the angels name Lenore, 
Nameless here forevermore. 

3.
Và tiếng lụa xột xoạt buồn bã trên từng tấm rèm màu hồng 
Làm tôi sợ hãi – vây kín hồn tôi nỗi khiếp sợ chưa thấy bao giờ 
Lúc ấy, tim vẫn đập, tôi tự nhủ 
"Có khách bên ngoài xin cứ vào phòng”
Có khách muộn xin cứ vào phòng
Chỉ vậy thôi, và chẳng có gì thêm.

And the silken sad uncertain rustling of each purple curtain 
Thrilled me - filled me with fantastic terrors never felt before; 
So that now, to still the beating of my heart, I stood repeating, 
" 'Tis some visitor entreating entrance at my chamber door, 
Some late visitor entreating entrance at my chamber door. 
This it is, and nothing more." 

4.
Lúc này tôi đã mạnh dạn, chẳng còn e ngại nữa 
Tôi bảo: "Quý ông hay quý bà, thực lòng xin thứ lỗi
Quả tình tôi đang thiếp giấc, mà quí vị lại gõ quá nhẹ nhàng 
Lại đập quá khẽ - vào cửa buồng tôi 
Tôi không dám chắc là đã nghe tiếng gõ"
Còn giờ đây tôi mở rộng cửa 
Ngoài đó đêm đen, và chẳng có gì thêm.


Presently my soul grew stronger; hesitating then no longer, 

"Sir," said I, "or madam, truly your forgiveness I implore; 
But the fact is, I was napping, and so gently you came rapping, 
And so faintly you came tapping, tapping at my chamber door, 
That I scarce was sure I heard you."
Here I opened wide the door
Darkness there, and nothing more. 

5.
Nhìn sâu vào đêm thẳm, tôi đứng đó thật lâu trầm tư, sợ hãi 
Nghi ngại những mộng mơ chẳng ai dám mơ 
Nhưng im lặng không phá vỡ, vẫn vậy chẳng thêm điều gì 
Và chỉ một từ được thốt lên, bằng tiếng thì thầm
"Lenore!" , đấy là tôi thì thầm và nghe vọng lại một từ
"Lenore!" đơn thuần vậy thôi, và chẳng có gì thêm. 


Deep into the darkness peering, long I stood there, wondering, fearing 

Doubting, dreaming dreams no mortals ever dared to dream before; 
But the silence was unbroken, and the stillness gave no token, 
And the only word there spoken was the whispered word, 
“Lenore !”, This I whispered, and an echo murmured back the word, 
"Lenore !" Merely this, and nothing more. 

6.
Quay lại căn phòng, lòng tôi bất an
Chặp sau lại nghe một tiếng đập, to hơn lần trước 
Tôi tự nhủ, "chắc có gì ngoài cửa sổ
Hãy ra xem ngoài ấy có bí ẩn gì 
Hãy bình tâm , rồi sẽ tìm ra bí ẩn này 
Nhưng chỉ có gió, chẳng có gì thêm nữa 

Back into the chamber turning, all my soul within me burning, 
Soon again I heard a tapping, something louder than before, 
"Surely," said I, "surely, that is something at my window lattice. 
Let me see, then, what thereat is, and this mystery explore. 
Let my heart be still a moment, and this mystery explore. 
" 'Tis the wind, and nothing more." 

7.
Tôi mở tung cửa, con quạ vung vinh vỗ cánh dồn dập bước vào 
Một con quạ bệ vệ, trang nghiêm của những ngày thiêng xưa cũ 
Chẳng hề cung kính, không lúc nào dừng lại hay đứng yên 
Mà với bộ mặt đài các kiêu kỳ đậu vào phía trên cánh cửa buồng tôi 
Đậu trên tượng bán thân thần Pallas, đặt ngay phía trên cánh cửa buồng tôi 
Đậu chễm chệ thế thôi, chẳng có gì hơn nữa 

Open here I flung the shutter, when, with many a flirt and flutter, 
In there stepped a stately raven, of the saintly days of yore. 
Not the least obeisance made he; not a minute stopped or stayed he; 
But with mien of lord or lady, perched above my chamber door. 
Perched upon a bust of Pallas, just above my chamber door, 
Perched, and sat, and nothing more. 

8.
Thế rồi con chim màu mun này làm khuôn mặt buồn của tôi tươi cười
Bằng cái dáng điệu nghiêm trang khắc khổ của nó
Tôi bảo : "Cho dù đầu ngươi bị xén trụi lông nom ngươi chẳng nỗi hèn nhát
khủng khiếp, cổ lỗ, bay lang thang khỏi bóng đêm
Cho ta biết quí danh ngươi nơi địa ngục là gì
Con quạ kêu lên: "Không bao giờ nữa" 



Then this ebony bird beguiling my sad fancy into smiling, 
By the grave and stern decorum of the countenance it wore, 
"Though thy crest be shorn and shaven thou," I said, "art sure no craven, 
Ghastly, grim, and ancient raven, wandering from the nightly shore. 
Tell me what the lordly name is on the Night's Plutonian shore." 
Quoth the raven, "Nevermore." 

9.
Tôi kinh ngạc khi nghe con chim xấu xí nói rõ lời
Dù câu trả lời khá vô nghĩa - vu vơ 
Bởi chúng ta không thể tin rằng đời này 
Có ai được thấy con chim hay con thứ sống bên cánh cửa phòng mình 
Nó đậu ngay trên pho tượng phía trên cửa phòng mình 
Với một cái tên: "Không bao giờ nữa" 

Much I marvelled this ungainly fowl to hear discourse so plainly, 
Though its answer little meaning, little relevancy bore; 
For we cannot help agreeing that no living human being 
Ever yet was blessed with seeing bird above his chamber door, 
Bird or beast upon the sculptured bust above his chamber door, 
With such name as "Nevermore." 

10.
Nhưng con quạ đậu đơn độc trên pho tượng câm lặng ấy, 
Chỉ nói mỗi một từ, dường như nó trút cả linh hồn vào đó 
Rồi nó chẳng thốt thêm lời nào, lặng yên không động cánh 
Cho đến khi tôi khẽ thì thầm: "Bạn bè đã bỏ tôi từ trước 
Và ngày mai nó lại sẽ bỏ tôi, như bao hi vọng đã bay đi  
Lời quạ kêu lên: "Không bao giờ nữa" 

But the raven, sitting lonely on that placid bust, spoke only 
That one word, as if his soul in that one word he did outpour. 
Nothing further then he uttered; not a feather then he fluttered; 
Till I scarcely more than muttered, "Other friends have flown before; 
On the morrow he will leave me, as my hopes have flown before." 
Then the bird said, "Nevermore." 

11.
Giật mình trước sự yên tĩnh bị phá vỡ bởi tiếng trả lời rành rõ
Tôi liền bảo: "Những gì nó thốt ra là toàn bộ vốn ngôn từ 
Bắt chước ở ông chủ bất hạnh từng chịu tai ương 
Bám riết không rời cho đến khi những bài ca nước mắt 
Và những lời ai điếu hy vọng u buồn
      Trong cụm từ "Không bao giờ - không bao giờ nữa" 





      Startled at the stillness broken by reply so aptly spoken, 

"Doubtless," said I, "what it utters is its only stock and store, 
Caught from some unhappy master, whom unmerciful disaster 
Followed fast and followed faster, till his songs one burden bore,
Till the dirges of his hope that melancholy burden bore 
Of "Never - nevermore." 

12.
Nhưng con quạ lại làm khuôn mặt buồn của tôi tươi tắn
Tôi bèn tiến đến ngồi trước con chim, trước pho tượng bán thân và cánh cửa 
Rồi trên tấm đệm nhung , tôi chìm sâu vào miên tưởng
Tưởng tượng rằng con chim quái dị này từ xa xưa
Là loài chim ác nghiệt, vụng về, kinh dị, buồn thảm và điềm gở
Khi muốn gì thì kêu lên "Không bao giờ nữa" 

But the raven still beguiling all my sad soul into smiling, 
Straight I wheeled a cushioned seat in front of bird, and bust and door; 
Then, upon the velvet sinking, I betook myself to linking 
Fancy unto fancy, thinking what this ominous bird of yore – 
What this grim, ungainly, ghastly, gaunt and ominous bird of yore 
Meant in croaking "Nevermore." 

13.
Lúc này, tôi đành ngồi ngẫm đoán nhưng nghĩ được gì
Còn chú chim thì đôi mắt rực lửa thiêu đốt tận tâm can 
Tôi ngồi nán thêm lúc nữa mà suy đoán, suy tư nhẹ nhàng thoải mái
Ánh đèn phủ lên rìa thảm nhung tím 
Nàng sẽ ôm lấy nó nhưng không bao giờ nữa !

Thus I sat engaged in guessing, but no syllable expressing 
To the fowl, whose fiery eyes burned into my bosom's core; 
This and more I sat divining, with my head at ease reclining 
On the cushion's velvet lining that the lamplight gloated o'er, 
She shall press, ah, nevermore! 

14.
Rồi tôi cảm thấy không khí đậm đặc hơn, có mùi thơm từ một lư hương vô hình 
Có thần ma nào đó lắc lư cùng tiếng chân khẽ vang trên thảm 
Tôi thét lên: "Khốn nạn thay, xin Chúa hãy nương tay qua vị thần này
Hãy gửi tới lòng bao dung – bao dung để quên đi nàng Lenore." 
Hãy uống, uống đi chút rượu giải sầu này và quên đi nàng Lenore đã mất 
Con quạ kêu: "Không bao giờ nữa" 

Then, methought, the air grew denser, perfumed from an unseen censer 
Swung by seraphim whose footfalls tinkled on the tufted floor. 
"Wretch," I cried, "thy God hath lent thee -- by these angels he hath 
Sent thee respite - respite and nepenthe from thy memories of Lenore! 
Quaff, O quaff this kind nepenthe, and forget this lost Lenore!" 
Quoth the raven, "Nevermore!" 

15.
"Kẻ báo điềm gở kia!" - Tôi bảo - "Đồ xấu xa kia, mi là chim hay là quỷ"
Kẻ cám dỗ gởi ngươi đến, hay bão táp quăng ngươi dạt vào nơi này 
Người cô độc lại nghênh ngang , trên mảnh đất hoang vu kì diệu này 
Trong ngôi nhà ám ảnh này - ta van ngươi hãy nói thật 
Liệu ngươi có nhựa hương Gilead ? - ta van ngươi hãy nói thật 
         Con quạ kêu lên: "Không bao giờ nữa" 



"Prophet!" said I, "thing of evil! - prophet still, if bird or devil! 
Whether tempter sent, or whether tempest tossed thee here ashore, 
Desolate, yet all undaunted, on this desert land enchanted—
On this home by horror haunted - tell me truly, I implore
Is there - is there balm in Gilead ? - tell me--tell me I implore!
Quoth the raven, "Nevermore." 

16.
"Kẻ báo điềm gở kia!" - Tôi bảo - "Đồ xấu xa kia, mi là chim hay là quỷ"
Trên trời cao nhìn xuống,  chúng ta đều có chúa mà tôn thờ
Xin hãy bảo cho tâm hồn trĩu nặng này, nếu có thể được
Cho tôi còn được ôm thánh nữ , được các thiên thần gọi tên Lenore
Cho tôi còn được ôm thánh nữ , được các thiên thần gọi tên Lenore
Con quạ kêu lên: "Không bao giờ nữa"

"Prophet!" said I, "thing of evil--prophet still, if bird or devil! 
By that heaven that bends above us--by that God we both adore—
Tell this soul with sorrow laden, if, within the distant Aidenn, 
It shall clasp a sainted maiden, whom the angels name Lenore--- 
Clasp a rare and radiant maiden, whom the angels name Lenore? 
Quoth the raven, "Nevermore." 

17.
Tôi đứng dậy gào lên : "Là chim hay là quỷ, lời ngươi là dấu hiệu chia lìa".
Hãy quay về với dông bão và bờ Đêm địa ngục 
Đừng bỏ lại một chiếc lông nào làm lưu dấu cho lời dối trá mà hồn ngươi thốt ra 
Rời khỏi pho tượng trên cánh cửa buồng ta 
Hãy rút mỏ ra khỏi tim ta và mang hình hài ngươi biến sau khung cửa 
Con quạ đáp lời: "Không bao giờ nữa"

"Be that word our sign of parting, bird or fiend!" I shrieked, upstarting—
"Get thee back into the tempest and the Night's Plutonian shore! 
Leave no black plume as a token of that lie thy soul hath spoken! 
Leave my loneliness unbroken! -- quit the bust above my door! 
Take thy beak from out my heart, and take thy form from off my door!" 
Quoth the raven, "Nevermore." 

18.
Và con quạ không hề động cánh, vẫn im lìm, đứng im lìm
Trên bức tượng Pallas bán thân bên cánh cửa
Và con mắt nó, dường như là mắt quỷ đương mơ ngủ, 
Và ánh đèn trên cao đổ bóng sàn nhà
Và hồn tôi khi nào thoát khỏi bóng quạ đen dập dềnh trên sàn 
Không thể nào nhấc lên - không bao giờ nữa!

And the raven, never flitting, still is sitting, still is sitting 
On the pallid bust of Pallas just above my chamber door; 
And his eyes have all the seeming of a demon's that is dreaming. 
And the lamplight o'er him streaming throws his shadow on the floor; 
And my soul from out that shadow that lies floating on the floor 
Shall be lifted - nevermore!

Không có nhận xét nào: