Lê
Đức Thịnh
Đọc “Thiên Nga Bay Đi” - tập thơ, Nguyễn
Giúp (Nxb Hội Nhà Văn - 2020)
Trong
những người thơ Đất Quảng, Nguyễn Giúp là cái tên quen thuộc, dung dị. Sinh ra
và lớn lên nơi hợp lưu của hai dòng sông Vu Gia và Thu Bồn, thổ nhưỡng đã nuôi dưỡng hồn thơ anh. Anh viết thơ đã lâu, viết trong niềm say chữ, không ồn
ào lập ngôn, không háo sự hiếu sự, không bút danh, ra sách lặng lẽ
nhưng xuất hiện khá đều trên tạp chí Văn nghệ Quân Đội, Đất Quảng… cùng nhiều
trang văn nghệ ở các báo trung ương và địa phương.
Tính
đến lúc này, anh đã chắt lọc cho mình ba tập thơ khá đằm: Gió Từ Sông Thổi Lên (2017), Thiên Nga Bay Đi (2020) và Sóng Thu Bồn (2021).
Người
viết bài này không có ý định rút tỉa hay tìm kiếm những giá trị thi pháp thơ
Nguyễn Giúp mà chỉ cảm nhận đôi điều về thi giới trong thơ anh bởi rõ ràng là có một miền ký ức rất thực - cũng
có thể là siêu thực - đã và đang tồn tại trong không gian Thiên Nga Bay Đi - nơi ấy không có ký ức nào lại không mang theo thi ca.
Thiên Nga Bay Đi là những ám ảnh, trải nghiệm qua những tháng
năm rong ruổi, là sự tiếp nối của Gió Từ
Sông Thổi Lên trong hành trình sáng tạo của Nguyễn Giúp để có thể chạm đến
chốn sâu thẳm trong tâm cảm người đọc. Nơi ấy Nguyễn Giúp chia sẻ kí ức hồn hậu,
đau đáu của mình qua từng câu chữ: “em
mang nỗi buồn sang nhà tôi/ cỏ xanh bên thềm chiều mỏng dính” (Cỏ); “mặt trời lên cha vấn thuốc ra đồng/ đứa em
chi cũng hoe vàng tóc chẻ” (Cổ tích cho chị); “ngày em theo sông mới hay sông chảy ngược/ có tiếng gà bên kia đồi đứng
bóng” (Ngõ xưa)…
Thiên Nga Bay Đi là một thế giới đầy tình tứ, xôn xao ánh sáng và sắc màu trong đó mỗi
hình ảnh, sự vật từ miền ký ức đều được chạm khắc khá nổi nét và cụ
thể trên cái nền dường như bị làm nhoè để phối cảnh thêm mông lung mà sống động.
Tập
thơ Thiên Nga Bay Đi gồm năm mảng rời kết nối với nhau thành câu
chuyện mang cảm thức về những khoảnh khắc và miên viễn, có cảnh ngộ riêng nhưng cũng khái quát, ngưỡng
vọng và khao khát, trầm tích và tái hiện, có tiếng reo thầm và lời xuýt xoa của
người thơ.
1.
Những Linh Hồn Rạ là câu chuyện quê xứ
với 17 bài thơ đầy sức ám ảnh. Ở đó ta nhận ra hình ảnh cố xứ với các địa danh
quen thuộc: Ngọc Linh, Hòn Kẽm, Đá Dừng, Đại Bường, Mỹ Sơn, Thu Bồn, Sông Thu,
Sông Tiên, Ch’nóc... Nơi ấy đất và người giao thoa, tựa gởi linh hồn vào nhau
trong cái đẹp: “Đại Bường em đôi mươi tóc
thơm da nuột/ cỏ non bò gặm nắng/ sông sâu cá mơ trăng” (Hát với Thu Bồn); “như nguyên sơ em đi chợ sớm Phú Đa/ như mẹ
đò ngang Bến Dầu/ và sông cũng nhu mì như thế” (Trên đỉnh Phường Rạnh). Nơi
đây ta bắt gặp thổ nhưỡng với đất đai,
bãi bờ, đồi cỏ… chạm lên cảnh sắc “quê
nhà một dòng sông chảy suốt/ nắng mưa mẹ cha cấy cày” (Cò trắng bay cao)...
Những sản vật như rượu Ta-đinh miền cao, lòn bon trung du Tiên Châu, khoai xiêm
đồng bằng… đi vào câu thơ mà thành “vàng
ngọt… thơm/ chờ người” (Ngõ xưa). Điều
không thể thiếu trong Những Linh Hồn Rạ
là hình ảnh bao nhân vật trữ tình thân thiết: người cha lật đất, bóng mẹ
xanh trời, chị xắn quần lội ruộng (Cổ tích cho chị), người em “đôi mắt ngọt ngào và xanh hơn trời cao”
(Chiều tối có mưa giông trên đồi)… Tất cả hiện lên khá rõ nét trong những câu
chuyện tưởng đã phôi phai mà thành ám ảnh “đôi
mắt em hoang dại/ tan loãng/ vào cơn mưa núi” (bon)… Những thi liệu bản địa ấy không chỉ chạm khắc
nên hồn thơ xứ Quảng trong anh mà ở tầm khái quát hơn, nó là hình ảnh quê hương
đất nước thể hiện qua cảm thức và chiều sâu nhân sinh nhưng quan trọng hơn là
nó tạo nên những câu thơ đầy mỹ cảm - những
nếp thơ màu vàng lục – có mang theo linh tánh sự vật cùng với hồn quê “chúng xếp ngay ngắn thành từng hàng/ và bắt
đầu diễu binh” (Những linh hồn rạ).
2.
Chuyện với Bon gồm 6 bài thơ là những
ám tượng về miền sơn cước nơi anh đã sống và công tác gần như hết thời trai trẻ.
Bon là tên người thực, cũng có thể là cái tên siêu thực nào đó tự nghĩ ra, lạ lẫm
mà gần gũi, mang theo sức sống của “những
mầm cây mọc lên từ đất”, hồn hậu “như
lũ ong bay đi tìm hoa/ đẹp như nụ hoa kia vươn tới ánh sáng” nhưng cũng nhiều
“nỗi buồn và nhau loảng xoảng cùng niềm
vui trong tiếng mưa lập nên tạp âm mới của núi/ dấy nên những mầm cây”
(Chuyện với Bon).
Trong 6 bài thơ sơn cước ấy, Nguyễn Giúp đã vẽ ra
những bức tranh thiên nhiên đậm chất tạo hình, gần gũi và sống động: “cánh hoa trên đồi nhật thực/ mùa xuân hồng
phía đỉnh cao” (Trong đôi mắt em có giấc mơ của núi), “tiếng chim đơn độc/ ngọn gió vẽ khuya/ rừng cũ vỡ òa khuôn mặt anh”
(Tiếng chim rừng cũ)… Song đây không đơn thuần là những bức tranh
thiên nhiên, cho dù có khá nhiều chi tiết tả thực mà nó là những ấn tượng về một
không gian ký ức tràn đầy ánh nắng, có sự dồn nén của thời gian trong một khoảnh
khắc để tạo nên thứ ánh sáng phản chiếu rực rỡ kì lạ trong “chút ánh sáng hoang dại và mỏng manh để rực sáng”. Song nó không
phải là những ánh sáng cảm nhận từ thị giác mà là sự cắt nghĩa, lí giải
của tâm hồn “lung linh khuôn mặt ấy/ bầy
chiêm bao đánh thức mặt trời” (Trong đôi mắt em có giấc mơ của núi).
3.
Sóng gồm tám bài thơ mang theo những
dập duềnh phía gió biển. Dường như có sự liền mạch và rộng mở không gian thi ca
từ miền cao đến phía sóng tạo ra những “va
đập đến nát lòng”. Không phải ngẫu
nhiên khi những câu thơ viết về
làng biển lại có hình ảnh ví von với núi rừng khi miêu tả con người làng chài “thật thà như rừng nguyên sinh” (Mắt lưới)
hoặc “chiều nay có cánh rừng ngoài khơi rất
xanh” (Trước biển). Điều ấy chứng tỏ trong tâm trí của người thơ là một không gian chan hòa, rộng mở, xuyên
suốt, đầy ám ảnh của quá khứ “mà lấp lánh
những xà cừ vẽ nên tâm hồn biển” (Kịp sóng). Nơi ấy dường như ám ảnh anh
qua những phận người - “Người đàn bà mang
bầu dầm dề sóng” (Biển & người đàn bà mang bầu), “người con gái từ bỏ giấc mơ vợ chồng” (Trước biển)… luôn khắc
khoải trong anh “Khi chiều nay những khoảng
lặng giao nhau” (Khoảng lặng)…
4.
Cung Đàn gồm 12 bài thơ có thanh âm
trú ngụ trong trái tim yêu trẻ trung và chín chắn, sôi nổi và kín đáo, hữu hạn
và bất tận, có thể và không thể. Những nhan đề trong phần thơ này có nhiều sức
gợi: Và bất tận có thể, Hoa mộc lan nhả
hương, Cho em và hoa cúc, Phế tích một sân ga, Đôi mắt em có chút buồn cỏ may… Đó là những diễn tả riêng biệt, cảm tính, tri giác một
cách trực tiếp tuy nhiên phải hiểu được cái thế giới hình tượng được thiết lập
nên từ tiềm thức thì mới có thể khám phá, lí giải được “nơi bắt đầu những âm thanh” (Em/ Một ly đen/ Chiều). Đó là những “thanh âm trở về ẩn trắc” từ “lồng ngực em hãy còn thanh xuân”, từ “vườn khuya không còn tiếng chim” (Cung
đàn)…
Viết/ đọc đến đây, tôi chợt nhớ đến bài hát nổi tiếng "The Sound of
Silence" (Thanh âm tĩnh lặng) do nhạc sĩ người Mỹ Paul
Simon sáng tác năm 1964, giai điệu và dòng ca từ trong ca khúc như
là lời tự nhủ, nhắn gửi cho chính mình rằng khi con người cô đơn thì những thanh
âm tĩnh lặng chỉ có thể cảm nhận bằng trái tim: “Một ảo ảnh đang từ từ gieo mầm khi tôi đang ngủ/ và ảo ảnh ấy lớn dần
trong tâm trí cho đến khi cái đọng lại là thanh âm của tĩnh lặng/ đó là nghi lễ,
là ngôn ngữ kí hiệu, là lời tiên tri được viết trên tường của hầm ngầm/ lời thì
thầm trong thanh âm của tĩnh lặng” (A vision softly creeping left its seeds
while I was sleeping/ and the vision that was planted in my brain still remains
within the Sounds of Silence/ that it was forming, the signs said, the words of
the prophets are written on the subway walls/ and whisper in the sounds of
silence) – Trích ca từ bài hát đã nêu.
Có lẽ những Cung đàn ấy
là tiếng vọng, là âm thanh tĩnh lặng
cộng hưởng bừng tỉnh bên trong tâm hồn, tạo nên những cú va đập mạnh trong xúc
cảm, mở đường cho sự trỗi dậy “cồn cào
trái tim đói dưỡng khí thoi thóp những cơn yêu/ đuối ngợp đuổi theo bóng con đường
khuất/… lâng lâng những con đường trôi dạt/ đôi mắt em có chút buồn cỏ may”
(đôi mắt em có chút buồn cỏ may). Chính nhờ sự nhập thân trong âm vọng ấy trọn
vẹn ấy mà những gì từ trong quá khứ lại hiện lên tươi mới trong hiện tại “dưới thảm mục những linh hồn mở ra loài thủy
chung” (Cho em và hoa cúc).
5.
Thiên Nga Bay Đi là tâm thức thăng
hoa thể hiện độ chín của chiều sâu cảm xúc "báo hiệu một bình diện ý thức khác với cái hiển nhiên; nó là mật mã của bí ẩn để nói ra được cái không thể nắm bắt bằng cách nào khác (Jean Chevalir).
Nơi Thiên
Nga Bay Đi ta bắt gặp những Vũ điệu “bày ra những hoang đường/ dọa dẫm vía người/ cát cứ bùa mê/ vũ điệu ma trơi..." (Vũ điệu); những mùa đông có "niềm vui rét mướt/ yếm nâu ngực trầm/ hạt mưa lõa thể..." (Mùa đông); những kí ức phố có “xếp hàng chờ cắt
tem phiếu/ đôi mắt em rất sáng nhưng không đủ triết lí/ căn nhà tồi tàn/ bài
hát nghe nhiều lần nhưng vẫn thấy mới…” (Kí ức phố); những cõi khác với “tình yêu như lớp thực bì đã cháy/ em ngồi
khóc rất tự do…” (Cõi khác)…
Cái không gian nơi Thiên Nga Bay Đi
phát lộ nhiều hình ảnh giàu ý nghĩa dù rất phi thực, mơ hồ nhưng luôn lung linh, khắc khoải, dằn vặt, nuối tiếc và khát khao – “tiếng cười thiên nga phong thanh như giọt
dương cầm nhả ra từ nhà thờ Chúa…” (Thiên Nga Bay Đi); "chừng ấy đủ để ta say chừng ấy đủ để các nơ
ron được tự do” (dỉm ơi, chiều tàn rồi)… để lắng nghe hoài niệm “anh không còn làm thơ cho em nữa”, nhìn
ngắm dĩ vãng “tro than và những chồi non
lẫn vào nhau” (Thơ) và cảm nhận vầng sáng “của những vì sao lỏng lẻo mắc
vào thiên hà” (Ảo giác)…
Từ
trong những câu thơ Nguyễn Giúp, chúng ta thấy rõ một phần không thể thiếu của
đời sống nội tâm trong anh là quê nhà, bãi bờ, phận người, giấc mơ và những ký ức.
Bằng tiếng nói riêng, kiểu nhả chữ khác biệt tạo
nên giọng thơ không lẫn vào đâu trong thơ ca Đất Quảng, anh gói gởi những ẩn số
của đời sống và tự mình giải mã nó trong niềm chia sẻ cùng bạn đọc “Tôi làm mưa nhưng không thấm nổi” (Mưa
Tháng Năm).
Dưới đôi cánh Thiên Nga Bay Đi, câu thơ của anh luôn đồng hành cùng cõi nhân sinh
với bao biến cố đời sống mà ở đó, anh như một chứng nhân cho những câu chuyện với
hạnh phúc và khổ đau, chia tay và hạnh ngộ, khóc và cười trong hành trình thi
giới vô thức và hữu thức của mình: “Thời
gian chảy đi vô thức/ Khóc ư, muộn rồi/ Cười ư, cũ rồi/ Buồn ư, trễ rồi/ Vui ư,
chán rồi/ Và chi nữa đây… đủ rồi” (… Và bất tận có thể).
Thơ
Nguyễn Giúp có độ nén của ngôn ngữ dù đôi khi những câu thơ văn xuôi kéo dài nhịp
xúc cảm hay ngắt nhịp rơi dòng kiểu thi pháp hiện đại (Chiều tối có mưa giông
trên đồi, Nợ…) chúng đều neo đậu được trong tâm cảm người đọc. Những câu thơ làm dáng, hay ngôn tình hầu như không (hoặc rất ít) xuất hiện trong thế giới thẩm
mỹ Thiên nga bay đi.
Xuyên suốt thơ anh là những hình ảnh thiên nhiên, quê hương, con người trở thành một thế giới cảm xúc xoay quanh cái trục chính là ký ức để qua đó anh cắt nghĩa, phản chiếu, đánh thức trong lòng mình bao niềm yêu thắc
thỏm. Nó không chỉ vận động trong mạch thơ của anh mà còn mở ra những khoảng ảo mờ cho
phép độc giả tiếp tục truy vấn những ý nghĩa mới bởi - như đã nói ở đầu - không có
ký ức nào lại không mang theo thi ca và
với người thơ thì ký ức của mỗi con người đều có khả năng dựng lên khu vườn thơ cho
riêng mình.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét