18/10/25

3.669. BARON WENCKHEIM'S HOMECOMING

  "Baron Wenckheim's Homecoming” (tiếng Hungary: Báró Wenckheim hazatér, tiếng Anh: Baron Wenckheim's Homecoming – Chuyến hồi hương của Nam tước Wenckheim) là một tiểu thuyết hư cấu của László Krasznahorkai (2016) giành được Giải thưởng Aegon (2017). Năm 2019, Ottilie Mulzet dịch sang tiếng Anh và bản dịch đã giành được Giải thưởng Sách Quốc gia (2019) cho Văn học dịch.

   Cuốn sách mở đầu bằng một đoạn độc thoại triết học do một nhạc trưởng trình bày với dàn nhạc của mình; đoạn mở đầu này không liên quan trực tiếp đến phần còn lại của cốt truyện.

Nam tước Béla Wenckheim, một quý tộc Hungary 64 tuổi ngây thơ và lập dị, trở về quê hương sau khi trả xong một khoản nợ cờ bạc lớn ở Buenos Aires, Argentina, nơi ông sống lưu vong. Ông hy vọng sẽ đoàn tụ với người yêu thời thơ ấu Marika. Tuy nhiên, khi nghe tin ông sắp trở về, người dân thị trấn tin rằng Nam tước Wenckheim sở hữu khối tài sản khổng lồ mà ông sẽ để lại cho thị trấn.

Một cốt truyện phụ quan trọng tập trung vào Giáo sư, một ẩn sĩ có khuynh hướng triết học, người đã bỏ trốn sau khi giết một thành viên của băng đảng xe đạp tân Quốc xã; một cốt truyện phụ khác tập trung vào chính trị của thị trấn và một vụ bê bối xảy ra khi một tờ báo địa phương đăng tải một bài viết lên án Hungary.

Cuốn tiểu thuyết sử dụng cấu trúc thử nghiệm, với những câu văn dài hàng trang và các đoạn văn liền mạch.

***

Trong một cuộc phỏng vấn với Asymptote, tờ The Paris Review, Krasznahorkai mô tả cuốn tiểu thuyết này như một "cadenza" (đoạn văn/ khúc nhạc ứng tác cho phần cuối tập sách/ bản nhạc – có thể dẫn dắt cho phần tiếp theo) cho các tiểu thuyết trước đó của ông. Ông nói thêm: Tôi không hài lòng với cuốn đầu tiên, và đó là lý do tại sao tôi viết cuốn thứ hai. Tôi không hài lòng với cuốn thứ hai, nên tôi viết cuốn thứ ba, và cứ thế. Giờ đây, với cuốn tiểu thuyết này, tôi có thể chứng minh rằng tôi thực sự chỉ viết một cuốn sách trong đời. Đây chính là cuốn sách đó, với các phần nối tiếp nhau: Satango - Melancholy - War and War - và Baron Wenckheim; là cuốn sách duy nhất của tôi.

Giống như Sátántangó, The Melancholy of Resistance và War and War; Baron Wenckheim's Homecoming lấy bối cảnh ở một thị trấn nhỏ của Hungary, phản ánh quê hương Gyula của ông với những câu chuyện kỳ lạ rồi mở ra nhiều không gian kể chuyện khác.

Tiểu thuyết sử dụng cấu trúc thử nghiệm, với những câu dài hàng trang và những đoạn văn không bị ngắt quãng; tôi lưu lại một số câu văn hay trong tác phẩm:

 

1. “Bằng chứng thực nghiệm chính xác là thứ thiêng liêng trong cái gọi là tư duy khoa học, và bằng những phương tiện này - không có ích gì khi phủ nhận nó - chúng ta có thể tiến xa, nhưng đồng thời, bằng cách áp dụng phương pháp này, chúng ta lại càng xa rời vấn đề, bởi vì nó quá hiển nhiên đến mức bản thân bằng chứng thực nghiệm là điều mà chưa ai từng thực sự giải quyết, cụ thể là, chưa ai từng thực sự muốn đối mặt với bản chất đầy vấn đề của việc xác minh thực nghiệm, bởi vì bất cứ ai làm điều này đều phát điên, hoặc dường như chỉ là một kẻ nghiệp dư,”

 

2. “Chính sự vô hạn đã soi sáng cách bộ não suy nghĩ, và nó thông minh đến nhường nào khi cho chúng ta thấy điều gì đó điều đó có vẻ thật khi nó chỉ là một sự trừu tượng, cụ thể là bộ não đã giới thiệu hoặc sử dụng một cách hiệu quả những phương pháp bóp méo, sự dịch chuyển đó”

 

3. "Không phải tôi không hiểu tại sao một người phải chết, mà đúng hơn là tôi không hiểu tại sao một người phải sống,” (It’s not that I don’t understand why a person has to die, but rather, I don’t understand why a person has to live,)

 

4. "Là người Hungary không phải là thuộc về một dân tộc nào đó, mà thay vào đó, nó là một căn bệnh, một căn bệnh nan y, đáng sợ, một tai họa với quy mô dịch bệnh có thể khiến bất kỳ ai quan sát cũng phải buồn nôn," (to be Hungarian is not to belong to a people, but instead it’s an illness, an incurable, frightening disease, a misfortune of epidemic proportions that could overcome every single observer with nausea,)

 

5. "Mọi nền văn hóa của loài người đều được tạo ra bởi nỗi sợ hãi," (every human culture is created by fear,)

 

6. "...chúng ta đừng bao giờ đánh mất ánh nhìn mà chúng ta dùng để nhìn nhận mọi thứ." (...we must never lose sight of that gaze with which we look at things.)

 

7. "Bằng chứng thực nghiệm chính xác là điều thiêng liêng trong cái gọi là tư duy khoa học, và bằng những phương tiện này - không có lý do gì để phủ nhận nó - chúng ta có thể tiến xa, nhưng đồng thời, bằng cách áp dụng phương pháp này, chúng ta lại càng xa rời vấn đề, bởi vì nó quá hiển nhiên đến mức bản thân bằng chứng thực nghiệm là điều mà chưa ai từng thực sự giải quyết, cụ thể là, chưa ai từng thực sự muốn đối mặt với bản chất đầy vấn đề của việc xác minh thực nghiệm, bởi vì bất cứ ai làm điều này đều đã phát điên, hoặc tỏ ra là một kẻ nghiệp dư thuần túy," (empirical evidence is precisely that which is sacred in so-called scientific thought, and by these means—there’s no point in denying it—we can go far, but at the same time, by following this method, we greatly distance ourselves from the problem, because it’s so, but so manifest that empirical proof itself is something that no one has ever heretofore truly dealt with, namely, no one has ever wished genuinely to confront the deeply problematic nature of empirical verification as such, because whoever did this went mad, or appeared to be a pure dilettante,)

 

8. "Đến lúc này, chúng ta phải tập trung lại sự chú ý vào điều này, vì nỗi sợ hãi là thứ định nghĩa sự tồn tại của con người… bạn sẽ thấy rằng nỗi sợ hãi là yếu tố sâu xa nhất có thể nắm bắt được trong thế giới hữu cơ và vô cơ này, và không có gì khác ngoài nỗi sợ hãi, bởi vì không có gì khác mang trong nó sức mạnh khủng khiếp như vậy” (at this point, we must refocus our attention on this, as fear is what defines human existence, ...you will see that fear is the deepest element that can be grasped in this organic and inorganic world, and there’s nothing else other than fear, because nothing else bears within it such dreadful strength)

 

9. "Chính sự vô hạn đã soi sáng cách bộ não suy nghĩ, và nó thông minh biết bao khi cho chúng ta thấy một điều gì đó có vẻ thực tế khi nó chỉ là một khái niệm trừu tượng, cụ thể là bộ não đã đưa ra hoặc sử dụng một cách hiệu quả những phương pháp bóp méo, sự dịch chuyển đó" (it’s precisely the infinite that casts light upon how the brain thinks, and how clever it is in showing us something that seems real when it’s merely an abstraction, namely that brain introduced or employed to great effect those methods of distortion, that dislocation)

     -------------
 References:
  1. goodread
  2. wikipedia

Mộc Nhân tuyển dich và biên tập từ các nguồn trên

Không có nhận xét nào: